Nghiên cứu tiến cứu về đặc điểm lâm sằng, kết quả chẩn đoán của sinh thiết cắt u phổi ngoại ui với hỗ trợ định vị của siêu âm và Xquang

Nghiên cứu tiến cứu về đặc điểm lâm sằng, kết quả chẩn đoán của sinh thiết cắt u phổi ngoại ui với hỗ trợ định vị của siêu âm và Xquang

Nghiên cứu tiến cứu về đặc điểm lâm sằng, kết quả chẩn đoán của sinh thiết cắt u phổi ngoại ui với hỗ trợ định vị của siêu âm và Xquang trên 37 BN (28 nam, 9 nữ) nằm điều trị tại khoa Hô Hấp bệnh viện Bạch Mai cho thấy:
–    Tỷ lệ nam!nữ là 3,1 /1. 56,8% các BN có tuôi 60 trở lên.
–    Biểu hiện lâm sàng hay gặp nhất với BN có khối u phôi ngoại vi là đau ngực (81%), sau đó đến ho (43,2%) và gầy sút (40,5%).
–    Tổn thương của khối u phổi có âm đồng nhất gặp ở 25 BN (67,6%), 86,5% BN có kích thước tổn thương từ 20 ~ 50mm.
–    31/37 BN (83,8%) sinh thiết 1 lần, có 6 BN phải sinh thiết lại lần 2, trong số đó có 5 BN dùng him sinh thiết 18 G.
Trong 37 BN STXTN phát hiện 20 BN ung thư phổi (ung thư biểu mô phế quản týp tế bào tuyến: 8, ung thư biểu mô phế quản típ tếbào vẩy: 7, ung thư biêu mô phế quản týp tê bào lớn: 1, ung thư biểu mô phế quản týp tế bào nhỏ: 2, ung thư biêu mô phế quản không định týp: 2 BN), 5 BN lao, 1 BN u nấm phổi. 1 BN viêm phổi cấp.
–    Kỹ thuật này tương đối an toàn. Tỷ lệ tai biến của STXTN là 2137 (5,40%) trường hợp, trong đó 1 trường hợp tràn khí màng phổi, 1 trường hợp ho máu. Trường hợp tràn khí màng phổi xử trí chọc hút khí đơn thuần, không phải đặt ống dẫn lưu khí, trường hợp ho máu không phải xử trí bằng thuốc. Đây là kỹ thuật tương đối an toàn.
I.    ĐẶT VẤN ĐÊ
Ung thư phế quản vẫn tiếp tục gia tăng trên thế giới, nhất là các nước công nghiệp phát triển, ở Việt Nam, ung thư phế quản là một bệnh thường gặp trong các bệnh ung thư. Mặc dù y học đã có nhiều tiến bộ về điều trị ung thư (phẫu thuật, hóa chất, xạ trị…) nhưng tiên lượng đối với bệnh này vẫn còn rất xấu. Tiên lượng này còn phụ thuộc vào mức độ chẩn đoán sớm hay muộn, loại tế bào ung thư. Chẩn đoán xác định ung thư phế quản phải tìm thấy tế bào ung thư. Để tìm thấy tế bào ung thư người ta cỏ nhiều biện pháp lấy bệnh phẩm như: soi tìm tế bào ung thư trong đờm, soi phế quản để lấy bệnh phẩm bằng cách rửa phế quản, chọc hút khối u, cắt mảnh sinh thiết, đôi khi một số khối u ở ngoại biên có khi phải mở lồng ngực để sinh thiết mới xác định được tính chất tế bào học của u [2]. Ngoài ra người ta còn có thể lấy bệnh phẩm qua chọc hút sinh thiết xuyên thành ngực (STXTN) [1]. .
Từ cuối thế kỷ XIX, kỹ thuật sinh thiết qua thành ngực bằng kim đã được thực hiện, việc xác định vị trí chọc kim trên thành ngực dựa vào phim Xquang thẳng, nghiêng, chiếu Xquang tim phổi. Với kỹ thuật này, khó sinh thiết đúng vị trí đối với những u nhỏ, thêm vào đó độ an toàn không cao. Những khối u phổi sát thành ngực, siêu âm có thể cho ta biết rõ về vị trí, kích thước và tính chất của nó. Người ta đã sử dụng siêu âm hai chiều để hướng dẫn cho sinh thiết xuyên thành ngực (STXTN). Kỹ thuật này cho phép thực hiện được với những tổn thương ở ngoại vi sát thành ngực, là một trong những phương pháp dễ thực hiện, an toàn, chính xác, ít tốn kém. ở Việt Nam, đã có một số trung tâm y tế nghiên cứu về vấn đề này, nhưng chưa thấy có nghiên cứu nào chi tiết về kết quả của STXTN với hỗ trợ định vị của siêu âm trong chẩn đoán xác định khối u phổi ngoại vi.
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài nhằm mục tiêu sau:
1.    Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng của u phổi ngoại vi.
2.    Tìm hiểu kết quả và biến chứng của kỹ thuật sinh thiết cắt u phổi ngoại vi với hỗ trợ định vị của siêu âm và Xquang.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment