NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH ĐÁP ỨNG HẬU CẦN PHỤC VỤ CÔNG TÁC CHỦ ĐỘNG PHÒNG CHỐNG DỊCH BỆNH TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ GIAI ĐOẠN 2000 – 2009

NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH ĐÁP ỨNG HẬU CẦN PHỤC VỤ CÔNG TÁC CHỦ ĐỘNG PHÒNG CHỐNG DỊCH BỆNH TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ GIAI ĐOẠN 2000 – 2009

 NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH ĐÁP ỨNG HẬU CẦN PHỤC VỤ CÔNG TÁC CHỦ ĐỘNG PHÒNG CHỐNG DỊCH BỆNH TẠI TỈNH THỪA THIÊN HUẾ GIAI ĐOẠN 2000 – 2009

Huỳnh Văn Hảo, Nguyễn Đình Sơn, Nguyễn Thái Hòa, Lê Nguyễn Thu Phương,
Nguyễn Sĩ Chất, Trần Thị Thanh Nga (A), Trần Thị Thanh Nga (B).
Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Thừa Thiên Huế

TÓM TẮT
Trong những năm qua, trên phạm vi thế giới đã xuất hiện rất nhiều bệnh dịch gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của xã hội, đặc biệt là làm tốn kém, tiêu hao rất nhiều về nhân lực, vật lực. Nghiên cứu theo phương pháp hồi cứu, mô tả và phân tích số liệu về tình hình dịch bệnh lưu hành và kinh phí đã đáp ứng cho công tác phòng chống dịch bệnh tại tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2000 – 2009. Kết quả cho thấy: Bệnh Sốt xuất huyết chiếm tỷ lệ 16,65/100.000 dân; Bệnh Tả chỉ xảy ra vào năm 2003, chiếm tỷ lệ 23,96/100.000 dân, có 199 ca dương tính với phẩy khuẩn Tả; Các bệnh Dịch Hạch, Thương hàn, Hội chứng lỵ, Bạch hầu, Ho gà, Quai bị được khống chế tốt. Bệnh cúm A (H1N1) đã xảy ra tại Thừa Thiên Huế vào năm 2009 với 183 trường hợp mắc, chiếm tỷ lệ 15,90/100.000 dân. Tổng kinh phí cung ứng: 12,285,066,407 đồng, tăng dần qua các năm, trong đó: Thuốc men chiếm 3,41%; dịch chuyền chiếm 0,71%; máy móc,trang thiết bị chiếm 2,17%; dụng cụ chiếm 1,46%; hóa chất chiếm 14,49%; sinh phẩm chiếm 4,41%; nhiên liệu chiếm 5,26%; tuyên truyền chiếm 17,51%; nghiệp vụ chiếm 50,57%. Các cấp, ngành ở địa phương cần tiếp tục tăng cường đầu tư hơn nữa về kinh phí cho công tác chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm có khả năng gây dịch trên toàn địa bàn của tỉnh Thừa Thiên Huế trong những năm đến.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm qua, trên phạm vi thế giới đã xuất hiện rất nhiều bệnh truyền nhiễm gây dịch như SARS, Cúm A (H5N1), Cúm A (H1N1), Tiêu chảy cấp, Sốt xuất huyết (SXH) gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của con người về mặt văn hóa, xã hội và đặc biệt là làm tốn kém, tiêu hao rất nhiều về nhân lực, vật lực.
Tại Việt Nam, theo thống kê mỗi năm có khoảng 3,5 triệu người mắc các  bệnh truyền nhiễm. Trong khi đó, trung bình chỉ có trên 16% ngân sách ngành y tế trong cả nước là dành cho công tác chủ động phòng chống các dịch bệnh.
Tại tỉnh Thừa Thiên Huế, phải đối mặt với nhiều dịch bệnh xuất hiện. Với sự chủ động trong công tác phòng chống dịch, các dịch bệnh nguy hiểm lưu hành tại địa phương như tả, sốt xuất huyết,… và một số bệnh mới nổi có khả năng gây dịch đã được khống chế và dập tắt kịp thời.
Việc đầu tư kinh phí, nhân lực, vật lực cho công tác chủ động phòng chống dịch bệnh hợp lý, phù hợp với tình hình ngân sách của địa phương là rất quan trọng. Với kinh phí đầu tư từ ngân sách địa phương trung bình mỗi năm khoảng 500 triệu cho công tác chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm, trong 10 năm trở lại đây, tỉnh Thừa Thiên Huế đã triển khai các biện pháp phòng chống dịch một cách tích cực, có hiệu quả, đã khống chế và kiểm soát được các dịch bệnh, góp phần ổn định tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân tỉnh nhà.
Theo Nghị quyết số 18/2008/QH 12 của Quốc hội khóa XII về đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật xã hội hóa để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân thì chúng ta cần đầu tư kinh phí cho công tác y tế dự phòng khoản 30% ngân sách y tế thì mới đảm bảo cơ bản cho công tác y tế dự phòng thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài nhằm mục tiêu:
1. Mô tả tình hình dịch bệnh lưu hành tại tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2000 – 2009.
2. Nhận xét tình hình đáp ứng hậu cần phục vụ công tác chủ động phòng chống dịch bệnh tại tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2000 – 2009.
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment