NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH VÀ YẾU TỐ TÂM LÝ XÃ HỘI LIÊN QUAN ĐẾN RỐI LOẠN TRẦM CẢM TAỊ PHƯỜNG XUÂN PHÚ – THÀNH PHỐ HUẾ
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH VÀ YẾU TỐ TÂM LÝ XÃ HỘI LIÊN QUAN ĐẾN RỐI LOẠN TRẦM CẢM TAỊ PHƯỜNG XUÂN PHÚ – THÀNH PHỐ HUẾ
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá tỉ lệ hiện mắc rối loạn trầm cảm (RLTC) trong cộng đồng dân cư tại một phường nội thành và xác định một số yếu tố tâm lý xã hội (TLXH) liên quan.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 11.103 cư dân tại phường Xuân Phú- TP Huế.
Kết quả:
– Tỷ lệ hiện mắc RLTC: 1,94% dân số; tỷ lệ nữ/nam là 5,06/1(p< 0,001); gặp nhiều nhất: độ tuổi 30-59 (p< 0,001), RLTC mức độ vừa (49,5%), có gia đình (68,5%), nhận thức đúng một phần về RLTC (61,5%), chưa từng được điều trị (68,5%), có 1-3 yếu tố TLXH liên quan (74,5%).
– Các yếu tố TLXH liên quan đến RLTC có ý nghĩa thống kê (p< 0,001; < 0,01 hoặc <0,05) là: gia đình không hoà thuận, thất bại trong tình yêu; không hài lòng về con cái; tai nạn xảy ra trong gia đình; người thân chết trong vòng 6 tháng; làm ăn thua lỗ; môi trường thiếu lành mạnh.
Kết luận: RLTC chiếm tỷ lệ khá cao, có yếu tố TLXH liên quan: không hai lòng về tình cảm đối với người thân, về làm ăn kinh tế; môi trường xã hội thiếu lành mạnh. Cần tuyên truyền về RLTC và giữ gìn truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, làm cho môi trường sống trở nên lành mạnh, để giảm thiểu các yếu tố thuận lợi làm phát sinh RLTC .
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trầm cảm là một trạng thái bệnh lý của rối loạn cảm xúc giảm khí sắc, đặc trưng bởi các triệu chứng buồn rầu, giảm thích thú, giảm năng lượng cơ thể, rối loạn giấc ngủ, mệt mỏi, cảm nhận không xứng đáng, giảm khả năng tập trung, chú ý…Các giai đoạn trầm cảm thường tái diễn khoảng 50% trường hợp, trầm cảm gây ra nhiều tổn hại cho cá nhân, gia đình và xã hội, gây mất khả năng lao động, là nguyên nhân của 2/3 các trường hợp tự sát trên thế giới.
Theo con số thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, 5 % dân số trên hành tinh chúng ta có rối loạn trầm cảm. Ở Australia, nghiên cứu cho thấy, trầm cảm chiếm 20 – 30% dân số, trong đó 3 – 4% là trầm cảm vừa và nặng. Tại Mỹ, theo Kesoler (1994), có 10,3% dân số bị trầm cảm và tỷ lệ mắc phải trong đời là 17,1%. Nghiên cứu của Levine (1993), tại Pháp, trầm cảm ở nữ chiếm 6%, tỷ lệ mắc phải trong đời là 22,64%; nam 3,4%, trong đời 10,7%. Điều tra trên 10.000 thầy thuốc hành nghề ở 5 nước Châu Âu ( Áo, Đức, Pháp, Ý, Thụy Sĩ), Kielhoz (1974) cho biết, 10% bệnh nhân đến khám tại các phòng khám đa khoa có rối loạn trầm cảm. Ở Trung Quốc, trầm cảm chiếm 4,8 – 8,6% dân số. Thavichachart (2001) điều tra tại Bangkok cho thấy, tỷ lệ mắc phải trong đời của trầm cảm là 19,9%.
Ở Việt Nam, Nguyễn Đăng Dung (1997) cho biết, tỉ lệ mắc trầm cảm trong nhân dân xấp xỉ 2 – 5 %. Nguyễn Viết Thiêm (1999) nghiên cứu ở xã Quất động – Hà Tây cho tỷ lệ cao hơn: có đến 8,35% dân số bị trầm cảm. Từ năm 2001-2003, Ngành Tâm thần Việt Nam điều tra 8 vùng sinh thái khác nhau với sự giúp đỡ của bộ câu hỏi CIDI kết hợp khám lâm sàng và test Beck cho thấy, trầm cảm chiếm 2,8% dân số.
Điều tra tại Thừa Thiên – Huế trên 2 xã: Lộc Tiến – Phú Lộc (2006) và Hương Xuân – Hương Trà (2008), chúng tôi phát hiện rối loạn trầm cảm lần lượt chiếm 2,01% và 1,85% dân số.
Nghiên cứu một số yếu tố liên quan đến rối loạn trầm cảm, các tác giả nhận thấy, tuổi khởi phát nhìn chung hay gặp từ 20 – 50, tỷ lệ trầm cảm gặp cao nhất ở độ tuổi 25 – 44. Về giới, nhiều thống kê cho thấy, trầm cảm gặp ở nữ nhiều hơn nam, tỉ lệ 2/1. Nhiều tác giả điều tra trên một số vùng địa lý cho biết, tỷ lệ trầm cảm ở Châu Á thấp hơn Châu Âu và Châu Mỹ, khu vực thành thị chiếm tỷ lệ cao hơn ở nông thôn và miền núi. Những người ly dị hoặc ly thân có nguy cơ trầm cảm cao hơn những người chưa lập gia đình và có gia đình, và những người nghề nghiệp ổn định có tỷ lệ trầm cảm thấp hơn những người thất nghiệp và nghề nghiệp không ổn định. Về yếu tố di truyền, 50% số bệnh nhân rối loạn cảm xúc có ít nhất cha hoặc mẹ mắc rối loạn cảm xúc và thường là trầm cảm; nếu cả bố và mẹ mắc thì tỉ lệ cao đến 70% các trường hợp con cái họ.
Về nguyên nhân của trầm cảm, ngoài di truyền, nội sinh, thứ phát sau một bệnh tâm thần khác, yếu tố tâm lý xã hội chiếm vai trò quan trong. Các yếu tố tâm lý xã hội này có thể là yếu tố thuận lợi, yếu tố thúc đẩy hoặc trong một số trường hợp là nguyên nhân của rối loạn trầm cảm.
Nghiên cứu về căn nguyên của trầm cảm, Clark (1991) cho rằng, yếu tố tâm lý xã hội là một trong những nguyên nhân gây trầm cảm. Stader (1998) nghiên cứu trầm cảm trên sinh viên đại học, cho thấy sang chấn tâm lý giữa người và người có liên quan đến nguyên nhân gây trầm cảm. Hunt, Sunwich, Andrews (1996) cho rằng, những sự kiện sống mang tính stress là yếu tố khởi phát hoặc thúc đẩy rối loạn trầm cảm. Trần Viết Nghị (2002) cho biết, yếu tố tâm lý xã hội hay gặp trong trầm cảm là kinh tế khó khăn: 19,74%, xung đột gia đình: 11,59%, con cái hư hỏng: 10,73%, người thân chết: 9,01%. Theo Lã Thị Bưởi (2002), 66% phụ nữ mãn kinh bị trầm cảm có liên quan đến yếu tố con cái hư hỏng, 57% liên quan đến có người thân bị chết.
Trong thời đại công nghiệp và hội nhập, các rối loạn trầm cảm có xu hướng gia tăng, nhận thấy đây là một trong những vấn đề cấp thiết nhằm cảnh báo và nâng cao nhận thức cho cộng đồng trong việc phòng và điều trị các rối loạn này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài trên “Nghiên cứu tình hình và yếu tố tâm lý xã hội liên quan đến rối loạn trầm cảm taị phường Xuân Phú-Thành phố Huế” với mục tiêu:
1.Đánh giá tỉ lệ hiện mắc rối loạn trầm cảm trong cộng đồng dân cư tại một phường nội thành, thành phố Huế.
2. Xác định một số yếu tố tâm lý xã hội liên quan đến rối loạn trầm cảm.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất