NGHIÊN CứU TìNH TRạNG NGộ ĐộC HóA CHấT TRừ SÂU PHOSPHO HữU CƠ TạI MộT Số TỉNH MIềN TRUNG – TÂY NGUYÊN
NGHIÊN CứU TìNH TRạNG NGộ ĐộC HóA CHấT TRừ SÂU PHOSPHO HữU CƠ TạI MộT Số TỉNH MIềN TRUNG – TÂY NGUYÊN
NGUYỄN ĐỨC LƯ, ĐOÀN QUANG VINH,
TRỊNH HỒNG NHỰT, HỒ NGỌC ÁNH
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện trên 135 bệnh nhân ngộ độc cấp phospho hữu cơ nhập viện ở các khoa Hồi sức cấp cứu của một số bệnh viện (Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Nam, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đăk Lăk, Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện Đà Nẵng) từ tháng 1 năm 2009 đến tháng 5 năm 2011. Chẩn đoán ngộ độc cấp phospho hữu cơ dựa vào các tiêu chuẩn sau: (1) bệnh sử tiếp xúc thuốc trừ sâu; (2) dấu hiệu và triệu chứng ngộ độc phospho hữu cơ; (3) sự cải thiện dấu hiệu và triệu chứng khi điều trị với atropin và pralidoxim; và (4) nồng độ cholinesterase huyết tương giảm (< 50% giá trị bình thường).Kết quả cho thấy: có 82 bệnh nhân nam và 53 bệnh nhân nữ, tỷ lệ nam/nữ là 1,5/1, nhóm tuổi trẻ (< 30 tuổi)
chiếm tỷ lệ cao nhất. Phần lớn bệnh nhân là nông dân (> 45%). Lý do ngộ độc chủ yếu là tự tử (93,6%). Các dấu hiệu lâm sàng thường gặp nhất là co đồng tử, da tái lạnh, vả mồ hôi, tăng tiết nước bọt, co thắt và tăng tiết dịch phế quản, hôn mê, rung cơ, liệt hô hấp, mùi thuốc trừ sâu (mùi tỏi, dầu hỏa), nhịp tim nhanh và các triệu chứng về tiêu hóa. Cận lâm sàng: men cholinesterase huyết tương giảm, bạch cầu máu tăng. Biến chứng thường gặp nhất là viêm phổi, quan sát trên 10,37% bệnh nhân. Suy hô hấp xảy ra ở 48,89% bệnh nhân, trong số đó có 25,75% bệnh nhân tử vong. Tất cả các bệnh nhân không suy hô hấp đều sống. Tỷ lệ tử vong trong nghiên cứu này là 12,59%. Tử vong xảy ra trong tuần đầu mà chủ yếu là 2 ngày đầu
TàI LIệU THAM KHảO
1. Nguyễn Thị Dụ (2007), Tình hình ngộ độc và phương hướng phát triển của chuyên ngành độc học lâm sàng , Kỷ yếu Hội nghị khoa học Hồi sức Cấp cứu và Chống độc toàn quốc lần thứ VI, TP. Hồ Chí Minh, 2007, Tr. 307-316.
2. Phạm Duệ (2005), Nghiên cứu kết hợp PAM và atropin trong điều trị ngộ độc cấp phospho hữu cơ, Luận án tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
3. Vũ Văn Đính (2001), “Phospho hữu cơ“, Cấp cứu ngộ độc, Nhà xuất bản Y Học, Hà Nội 2001, trang 165-173.
4. Nguyễn Văn Thái (1996), Nghiên cứu ứng dụng pralidoxim trong điều trị ngộ độc cấp phospho hữu cơ, Luận án thạc sĩ khoa học Y Dược, Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất