Nghiên cứu tỷ lệ hẹp động mạch thận ở bệnh nhân có bệnh động mạch vành

Nghiên cứu tỷ lệ hẹp động mạch thận ở bệnh nhân có bệnh động mạch vành

Nghiên cứu tỷ lệ hẹp động mạch thận ở bệnh nhân có bệnh động mạch vành

The study on prevalence of renal artery stenosis in patients with coronary artery disease
Trần Đức Hùng1, Nguyễn Phú Kháng1, Nguyễn Oanh Oanh1,1Bệnh viện 103 – Học viện Quân y
Trịnh Quốc Hưng1, Nguyễn Duy Toàn1, Bùi Thuỳ Dương1,2Bệnh viện Thống Nhất- TP Hồ Chí Minh
Nguyễn Đức Công2, Trần Văn Tuyến33Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
Tóm tắt
Hẹp đông mạch thân do vữa xơ thường gặp ở các bênh nhân có vữa xơ ở các đông mạch khác như đông mạch vành, đông mạch chủ bụng, đông mạch não, đông mạch chi. Hẹp đông mạch thân là nguyên nhân của tăng huyết áp thứ phát cũng như thiếu máu thân. Tuy nhiên, ở Việt Nam còn chưa nhiều nghiên cứu về hẹp đông mạch thân ở bệnh nhân có bệnh đông mạch vành. Mục tiêu của đề tài: Xác định tỷ lệ hẹp đông mạch thân ở bệnh nhân có bệnh đông mạch vành. Đối tương và phương pháp nghiên cứu: Đối tương gồm 100 bệnh nhân (65 nam và 35 nữ) nghi ngờ có bệnh mạch vành, tuổi từ 28 đến 84 (tuổi trung bình 61 ± 11,3 năm) , tất cả các bệnh nhân đều được chụp đông mach thân sau khi đã chụp đông mạch vành. Phương pháp: tiến cứu, mô tả, cắt ngang. Kết quả: 65 bệnh nhân (65,0%) có hẹp đông mạch vành, 35 bệnh nhân (35,0%) đông mạch vành bình thường. Trong số 35 bệnh nhân (35%) hẹp đông mạch thân, hẹp có ý nghĩa (hẹp > 50% đường kính lòng mạch) 12 bệnh nhân (12%), hẹp không ý nghĩa 23 bệnh nhân (23%). Hẹp đông mạch thân ở nhóm có hẹp đông mạch vành và nhóm không hẹp đông mạch vành là 29 bệnh nhân (44,6%) và 6 bệnh nhân (17,2%), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Tỷ lệ hẹp đông mạch thân ở nhóm có tổn thương môt nhánh và nhiều nhánh đông mạch vành là 29,7% và 64,4%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Tỷ lệ hẹp đông mạch thân tăng theo số nhánh đông mạch vành bị tổn thương
Tài liệu tham khảo
1.  Nguyễn Đức Hải, Lê Ngọc Hà, Lê Văn Trường, “Kết quả  chụp  động  mạch  vành  và  bước  đầu  áp  dụng phương  pháp  nong  và  đặt  stent  điều  trị  bệnh  động mạch vành tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108”, Tạp chí Tim mạch học 2004, 37, tr. 145 – 153.
2.  Hoàng  Văn  Quí,  Huỳnh  Văn  Minh,  “Nghiên  cứu  sự tương quan giữa mức độ tổn thương động mạch vành với  bảng  lượng  giá  nguy  cơ  Framingham”,  Tạp  chí tim mạch học 2005, 41, tr. 89 – 91.
3.  Nguyễn  Quốc  Thái,  Trần  Văn  Dương,  Nguyễn Quang Tuấn, “Nhận xét bước đầu ứng dụng phương pháp nong động mạch vành bằng bóng và đặt stent ở  những  bệnh  nhân  hẹp  động  mạch  vành  tại  Viện Tim mạch”, Tạp chí tim mạch học 2000, 41, tr. 89 -91.
4.  Đỗ Xuân Thụ, “Nghiên cứu tình trạng hẹp động mạch thận ở bệnh nhân có bệnh động mạch vành”, Luận văn thạc sỹ y học, Trường Đại học Y Hà Nội 2006, tr. 10 – 25.
5.  AHA Science Advisory, “Indication for renal arteriography at  the  time  of  coronary  arteriography”,  Circulation  2006, 114, pp. 1892 – 1895.
6.  Christopher E. Buller, et al, “The  profile of  cardiac patients with renal artery stenosis”, Journal of the American College of Cardiology 2004, (43), pp.1606 – 1613.
7.  Lui  BC, Tang  RN,  Feng  Y,  “A  single  Chinese  center investigation  of  renal  artery  stenosis  in  141  consecutive cases  with  coronary  angiography”. American Journal  of Nephrology 2004, 24(6), pp. 630-634.
8.  Rogério Tadeu Tumelero, Norberto Toazza Duda, et al,  “Prevalence  of  renal  artery  stenosis  in  1,656 patients  who  have  undergone  cardiac catheterization”, Arquivos  Brasileiros de Cardiologia 2006, 87(3), pp. 766 – 782.
9.  Takehiro Yamashita et al, “Prevalence and predictor of  renal  artery  stenosis  in  patients  undergoing cardiac  catheterization”,  Hypertension  Research 2002, 25, pp. 553 – 557. 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment