Nghiên cứu tỷ lệ, một số yếu tố nguy cơ của trẻ sơ sinh nhẹ cân và thử nghiệm một số can thiệp ở cần thơ
Trẻ sư sinh nhẹ cân không những là một chỉ số sức khỏe quan trọng của một quốc gia, của một địa phương mà còn có ý nghĩa vẻ tình trạng dinh dưỡng, bệnh tẠt và những tập quán có hại của bà mẹ; nó còn phản ánh những yếu tớ khác mà trong quá trình Iììang thai bà mẹ phải chịu ảnh hường như yếu tố kinh tế văn hóa-xã hội, yếu tố môi trường, yếu tố di truyển và yếu tố từ thai.
Trẻ sơ sinh nhẹ cân là trẻ sinh ra sống có cân nặng dưới 2.500g, bao gồm trẻ đẻ non có cân nặng nhẹ so với tuổi thai và thai đủ tháng có cân nặng nhẹ hoặc thai già tháng cân nặng nhẹ so với tuổi thai.
Theo W.H.0 (1998), hằng năm trên toàn thế giới có khoảng 25 triệu trẻ sơ sinh nhẹ cân đưực dc ra [108] và theo báo cáo tại Hội nghị CỊUỐC tế vổ trẻ sơ sinh nhẹ cân dược tổ chức ngày 14 đến 17 tháng 6 năm 1999 tại Dhaka, Bangladesh thì mỗi năm có khoảng 17 triộu trẻ sơ sinh nhẹ cân dược đẻ ra tại các nước dang phái triển |70].
Trẻ sơ sinh nhẹ cân có nguy cơ mắc các bệnh nhiéu hơn trẻ sơ sinh đủ cân như các bệnh phổi mãn tính, các bệnh nhiễm khuẩn và các bệnh thông thường khác; ngoài ra sau đẻ phải nằm viện lâu hom và thường xuyên mắc bệnh phải nhâp viện liổn tục nhất là trong năm nám dẩu sau sinh [53J,[108|. Nhiéu trẻ trong số Iìày phải chết sớm và trong số sống còn lại phải chịu đựng bệnh tật, kém phát triển vể thể chất và tâm thần hoặc chịu những vấn đề sức khỏe khác đốn cả khi trường thành [70],[ 108].
Theo thống kê hằng năm của Bộ Y tế Việt Nam, tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân giảm dần trong những năm gán đây: Năm 1990-1992 tỷ lộ này từ 12-14%; năm 1995 là 10,1%; số liệu năm 1997 là 9,3% [trích dẫn từ 11]; năm 1999 là 7,97%, trong đó những bà mc nghèo đẻ con có cân nặng nhẹ chiếm tỷ lộ 10,82%, các bà mẹ khá giàu và giàu đỏ con nhẹ cân có tỷ lệ là 7,15% và 4,85% [4J.
10,82%, các bà mẹ khá giàu và giàu đỏ con nhẹ cân có tỷ lộ là 7,15% và 4,85% [4J.
Tuy nhiôn số liệu cố khác nhau theo từng vùng địa lý và tùy vào nơi nghicn cứu là thành thị hay nông thốn: Tô Thanh Hương và cộng sự dà nghiên cứu ờ các tinh thuộc đồns bàns sông Hổng nhận Ihấy là những bà mẹ sống ở nông thôn đỏ con có cân nặng nhẹ là 1 [% và ờ thành thị là 5% [15]; nghiên cứu năm 1998 của Hoàng Vân Tiến ở huyện Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội lù 18,8% [25]; Trần Sophia khảo sát năm 1996 số trẻ sơ sinh nhẹ cân trên tổng số trẻ đẻ ra sổng tại Bệnh viện Đa khoa Cần Thơ là 18,7% [23].
Đà có nhiều nghiên cứu và tổng kết ở Việt-Nam và nước ngoài vổ các yếu lố nguy cơ anh hưởng đến trẻ sơ sinh nhẹ cân; nhưng ở khu vực dồng hằng sông Cửu Long nói chung và ở Cần Thơ nói riêng vẫn chưa có một nghiên cứu nào dồ xác định các yếu tố nguy cơ từ bù mẹ gây đẻ trẻ nhẹ cân. Người dân Cán Thơ có dời sống kinh tế văn hóa-xã hội còn thấp, nhất là vùng nòng thôn; sinh dẻ nhiều, trình độ học vấn thấp, lao động nòng nghiộp là phổ biến, đặc biộl môi trường và nguồn nước sinh hoạt bị ô nhiễm nặng [5] và hầng năm đều bị lô lụt. Đó là những vấn dề có tác động rất lớn đến tỷ lộ đỏ trò nhẹ cân của những bà mẹ sinh đẻ ở khu vực này.
Do dó luận án này nhằm vào những mục tiêu sau:
ỉ. Nghiên cứu tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cán ở Cần Thơ tại thòi điểm từ 01 tháng 10 năm 2001 đến 30 tháng 9 năm 2002
2. Nghiên cứu một sổ yếu (ố nguy cơ vê phía bà mẹ liên quan den trẻ sơ sinh nhẹ cân tại Cẩn Thơ.
3. Tổ chức và dán li giá thử nghiệm một số can thiệp tại cộng dồng nhằm giám yếu tổ nguy cơ phổ biến và có tính dặc thù của Cấn Thơ.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích