NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG GHÉP TỰ THÂN TẾ BÀO GỐC MÁU NGOẠI VI GIỮ ĐÔNG LẠNH -1960C TRONG BỆNH BẠCH CẦU CẤP

NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG GHÉP TỰ THÂN TẾ BÀO GỐC MÁU NGOẠI VI GIỮ ĐÔNG LẠNH -1960C TRONG BỆNH BẠCH CẦU CẤP

 NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG GHÉP TỰ THÂN TẾ BÀO GỐC MÁU NGOẠI VI GIỮ ĐÔNG LẠNH -1960C TRONG BỆNH BẠCH CẦU CẤP DÒNG TỦY TẠI BỆNH VIỆN TRUYỀN MÁU HUYẾT HỌC TP.HCM

Bệnh Bạch cầu cấp dòng tủy (BCCDT) là một bệnh thường gặp nhất trong số các bệnh lý ác tính của hệ tạo máu. Hóa trị liệu với các phác đồ có Anthracycline ngày càng nâng cao tỷ lệ lui bệnh hoàn toàn (LBHT) sau điều trị tấn công, tuy nhiên bệnh sẽ chắc chắn tái phát nếu như không được tiếp tục điều trị sau tấn công. Với một số BN không có người cho tế’ bào gốc phù hợp HLA, các tác giả đề nghị huy động và giữ đông lạnh các tế’ bào gốc máu ngoại vi (TBG MNV) của các BN, sau đó điều kiện hóa với các loại thuốc hủy diệt tủy và ghép trở lại cho họ nhằm mục đích kéo dài thời gian sống không bệnh (DFS) và thời gian sống toàn bộ (OS)( 142930).
Ghép tuỷ tự thân trong BCCDT đầu tiên được tiến hành ở giai đoạn tái phát, tuỷ được thu thập ở giai đoạn lui bệnh hoàn toàn (CR2), được giữ đông lanh và được ghép lại sau hoá trị liệu liều cao. Phương pháp này có thể giúp BN đạt LBHT nhưng không cải thiện được DFS và OS. Sau đó ghép tuỷ tự thân được tiến hành ở giai đoạn sớm hơn của bệnh (CR1), được xem như là sự củng cố với hóa trị liều cao, kết quả kéo dài thời gian sống không bệnh hơn hoá trị đơn thuần. Một nghiên cứu lớn trên hàng trăm BN nhằm so sánh 3 phưong pháp: ghép tuỷ tự thân, dị ghép tuỷ và hoá trị liệu liều cao, cho thấy kết quả DFS lần lượt là: 48 ± 5%, 55 ± 4%, 30 ± 4%, và OS lần lượt là: 56 ± 5%, 59 ± 4%, 46 ± 4%. Lúc đầu, ghép tuỷ tự thân được chỉ định cho những BN không có người cho phù hợp HLA, về sau được chỉ định nhiều hơn vì độc tính thấp do không xảy ra phản ứng mãnh ghép chống ký chủ (GVHD). Ngày nay ghép tự thân
TBG MNV được sử dụng ngày càng nhiều hơn ghép tủy tự thân vì cho sự phục hồi BC hạt và TC nhanh hơn(14,29,30, 33).
TBG luôn hiện diện ở MNV với một mức độ thấp, do đó các tác giả đã sử dụng một số biện pháp để gia tăng số lượng các TBG này trong máu, bao gồm hoá trị liệu, thuốc kích thích tăng trưởng tế bào tạo máu hay thuốc ức chế các thụ thể hoá học, sau đó thu thập chúng bằng phương pháp ly tách tế bào, gọi là các tế bào đầu dòng tạo máu ở MNV và lưu trữ để ghép cho BN. Các tác nhân được sử dụng cho việc huy động gồm có hoá trị liệu kết hợp với G-CSF, GM-CSF hoặc Interleukin 3… TBG MNV được thu thập sau giai đoạn điều trị tấn công hoặc củng cố, sau đó mẫu TBG được xử lý loại bỏ tế’ bào ác tính hoặc không xử lý và ghép trở lại cho BN trong giai đoạn sớm của bệnh, những kết
quả thu được rất tốt(2,26,29).
Đánh giá số lượng tuyệt đối của các tế’ bào CD 34+ so với trọng lượng của BN là một biện pháp thực hành đáng tin cậy cho việc xác định lượng TBG đầy đủ cho cuộc ghép thành công. Đa số các trung tâm ghép đếm tế bào CD34+ bằng phương pháp FACS (Fluorescent-activated cell sorting) và cho rằng số lượng tế bào CD34+ > 2 x 106/kg đủ cho việc hồi phục thành công ba dòng tế bào ghép, một số trung tâm còn chấp nhận ghép chỉ với số lượng tế bào CD34+ > 1 x 106/kg. Khoảng 10 – 20% BN thất bại với việc huy động TBG lần 1 cần được huy động lại lần 2 chỉ với G-CFS đơn thùâní14,17192029).
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment