Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi ổ bụng một thì điều trị bệnh phình đại tràng bẩm sinh
Trước năm 1948, hầu như tất cả bệnh nhân bị bệnh PĐTBS đều chết do không có phương pháp điều trị thích hợp. Từ năm 1948, Swenson lần đầu tiên giới thiệu kỹ thuật mổ cắt bỏ đoạn vô hạch và nối đại tràng lành với ống hậu môn, tỷ lệ bệnh nhân được cứu sống ngày càng tăng.
Trong giai đoạn đầu, phẫu thuật được tiến hành làm ba thì và phẫu thuật triệt để được thực hiện khi bệnh nhân trên 3 tuổi. Vì phải trải qua nhiều lần phẫu thuật đã gây tốn kém nhiều thời gian, tiền bạc và bệnh nhân phải chịu nhiều biến chứng liên quan đến các lần phẫu thuật. Cùng với sự phát triển của y học nói chung và gây mê hồi sức nói riêng đã rút ngắn số lần phẫu thuật xuống hai thì rồi một thì và phẫu thuật triệt để ở ngay tuổi sơ sinh [1, 2, 8].
Với yêu cầu chất lượng cuộc sống ngày càng cao đòi hỏi có tính thẩm mỹ trong phẫu thuật, đồng thời để giảm bớt sang chấn cho bệnh nhân, cho đến nay nhiều đường mổ có sẹo đẹp, kín đáo, ít sang chấn đã được áp dụng như đường Pfannenstiel cải tiến, đường qua hậu môn, phẫu thuật nội soi đang dần thay thế cho đường mổ kinh điển để phẫu thuật điều trị bệnh PĐTBS [4, 5, 6, 7].
Phẫu thuật nội soi với những ưu điểm vượt trội như thẩm mỹ, ít gây chấn thương ổ phúc mạc, quan sát rõ đoạn vô hạch, đoạn giãn và đoạn đại tràng lành, thời gian phục hồi sau mổ ngắn đã được áp dụng trong điều trị bệnh PĐTBS tại một số trung tâm phẫu thuật lớn trên thế giới [9, 10].
Tại Việt Nam, phẫu thuật nội soi điều trị bệnh PĐTBS bắt đầu được thực hiện tại Viện Nhi Trung ương từ năm 1997, nhưng đến năm 2001 phẫu thuật nội soi mới được áp dụng nhiều để điều trị bệnh PĐTBS. Từ đó đến nay mới có một vài báo cáo nhận xét về kết quả bước đầu áp dụng kỹ thuật này trong điều trị bệnh PĐTBS [2, 8]. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi điều trị bệnh phình đại tràng bẩm sinh một thì” với mục tiêu:
1. Ứng dụng phẫu thuât nội soi ổ bụng điều trị bệnh PĐTBS.
2. Đánh giá kết quả sớm phẫu thuât nội soi ổ bụng điều trị bệnh PĐTBS.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
1. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân bị bệnh PĐTBS được mổ bằng phương pháp phẫu thuật nội soi một thì tại Bệnh viện Nhi Trung ương bởi cùng một kíp phẫu thuật.
* Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân:
– Tuổi: từ sơ sinh đến 36 tháng tuổi, cả giới nam và nữ.
– Tiêu chuẩn chẩn đoán: bệnh nhân có các triệu chứng lâm sàng (chậm ỉa phân su, táo bón kéo dài …) được chụp khung đại tràng có hình ảnh điển hình của bệnh PĐTBS là có đoạn hẹp, đoạn chuyển tiếp hình phễu và đoạn giãn với vị trí đoạn vô hạch ở trực tràng, đại tràng xích ma. Có kết quả sinh thiết trong mổ là không có tế bào hạch thần kinh ở đoạn hẹp.
– Tiêu chuẩn loại trừ: đã mổ ở nơi khác thất bại, mổ nhiều thì, bị bệnh PĐTBS đang có các biến chứng viêm ruột, tắc ruột, viêm phúc mạc. Có các chống chỉ định của phẫu thuật nội soi như rối loạn đông máu, bệnh tim bẩm sinh nặng, bệnh lý cấp tính ở đường hô hấp.
Mục tiêu: ứng dụng và đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi (PTNS) ổ bụng điều trị bệnh phình đại tràng bẩm sinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả tiến cứu, gồm 31 BN dưới 36 tháng tuổi, được chẩn đoán xác định bệnh PĐTBS dựa vào lâm sàng, X quang và sinh thiết tức thì trong mổ có vị trí vô hạch từ trực tràng tới đại tràng xích ma được phẫu thuật nội soi một thì từ tháng 12/2007 đến tháng 9/2008. Kết quả: 31 BN bị bệnh PĐTBS gồm 27 nam và 4 nữ, tuổi trung bình lúc mổ là 4,8 ± 1,1 tháng (từ 16 ngày – 24 tháng), trọng lượng trung bình là 5,25 ± 0,4 kg, 6 BN có vị trí vô hạch ở trực tràng (19,4%), 25 BN có vị trí vô hạch tới đại tràng xích ma (79,6%). Tất cả các BN đều được đặt 3 trocar 5mm và 1 trocar 3mm với áp lực bơm C02 bằng 1/10 trị số huyết áp động mạch BN. Thời gian phẫu thuật trung bình 127 phút (từ 90 – 180 phút), đoạn ruột cắt trung bình 21,45 cm (từ 14 – 30 cm). Không có tai biến trong mổ, BN được ăn sau mổ 24 giờ, không có tử vong, không có BN nào bị bục miệng nối, nhiễm trùng vết mổ, 2 BN bị lòi mạc nối khi rút dẫn lưu, 7 BN có đỏ da quanh hậu môn. Thời gian nằm điều trị sau mổ trung bình 6,23 ± 0,2 ngày. Khi xuất viện các BN đều có khả năng tự đại tiện. Kết luận: PTNS ổ bụng điều trị bệnh phình đại tràng bẩm sinh một thì với độ an toàn, thẩm mỹ, ít sang chấn hoàn toàn có thể thực hiện được cho BN dưới 36 tháng tuổi có vị trí vô hạch từ trực tràng tới đại tràng xích ma.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích