Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị thủng ổ loét tá tràng

Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị thủng ổ loét tá tràng

Bênh loét dạ dày tá tràng là mọt bênh rất phổ biến ờ nước ta, ảnh hường không nhỏ tới đời sống nhân dân. Theo Phạm Khuê, tỷ lê mắc bênh này trong dân cư là 4,6% [23]. Trong quân đọi, theo Tạ Long, tỷ lê này là 6 % [25]. ở các nước phát triển, tỷ lê này khoảng 10 % [144].

Thủng ổ loét là mọt biến chứng của bênh loét dạ dày tá tràng với tỷ lê 5¬22% [36], [70]. Hâu quả là thức ăn và dịch tiêu hoá trong dạ dày trào ra khoang phúc mạc gây nên tình trạng viêm phúc mạc.

Điều trị thủng ổ loét dạ dày tá tràng bao gổm viêc xử trí biến chứng thủng và giải quyết bênh loét. Để đạt được cả hai mục tiêu này, trước đây các phẫu thuât viên đã cố gắng kết hợp làm ngay các phẫu thuât điều trị bênh loét như cắt đoạn dạ dày hoặc khâu lỗ thủng kết hợp cắt dây thần kinh X [3].

Ngày nay, nhờ những hiểu biết sâu sắc về cơ chế bênh sinh của loét dạ dày tá tràng, điều trị nôi khoa với các phác đổ điều trị đặc hiêu đã nhanh chóng làm lành ổ loét và hạn chế tỷ lê loét tái phát. Vì vây, chỉ định phẫu thuât điều trị bênh loét ngày càng bị thu hẹp [90].

Hiên nay điều trị thủng ổ loét dạ dày tá tràng có xu hướng chuyển sang phẫu thuât can thiêp tối thiểu để giảm tỷ lê biến chứng và tử vong, bênh loét sẽ được điều trị nội khoa sau mổ. Mục tiêu phẫu thuât chỉ là khâu lỗ thủng đơn thuần và rửa sạch ổ bụng nên rất phù hợp với phẫu thuât nọi soi [127].

Phẫu thuât nọi soi chỉ sử dụng mọt đường rạch nhỏ (1cm hoặc nhỏ hơn) cho camera và thường thêm 2 hay 3 lỗ nhỏ hơn cho các dụng cụ phục vụ thao tác kỹ thuât. Với đường rạch nhỏ, cơ thể người bênh ít bị tổn thương do đường rạch gây ra nên còn được gọi là “Phẫu thuât xâm hại tối thiểu”.

Những lợi ích mà phẫu thuât nọi soi đem lại cho bênh nhân như giảm đi sự đau đớn sau mổ, hổi phục sức khoẻ nhanh, tính thẩm mỹ cao, giảm thiểu nguy cơ tắc ruọt sau mổ và các biến chứng liên quan đến đường mổ… đã được khẳng định.

Phẫu thuật nôi soi điều trị thủng ổ loét dạ dày tá tràng được Phillip Mouret (Pháp) thực hiên lần đầu tiên năm 1989. Trên thế giới, đã có những nghiên cứu bước đầu cho thấy tính ưu việt của phẫu thuật này so với mổ mở.

Ở Việt Nam, phẫu thuật nôi soi được du nhập rất sớm. Năm 1992, ca cắt túi mật nôi soi đầu tiên đã được thực hiện tại bệnh viện Chợ Rẫy.

Phẫu thuật nôi soi đã phát triển rất mạnh mẽ, ngày càng có nhiều loại hình phẫu thuật được thực hiện bằng nôi soi, chỉ định phẫu thuật nôi soi ngày càng mở rông, kĩ thuật ngày càng được hoàn thiện.

Tuy nhiên, việc ứng dụng phẫu thuật nôi soi trong điều trị thủng ổ loét dạ dày tá tràng ở các bệnh viện ở Việt Nam còn rất hạn chế, ít báo cáo đề cập đến vấn đề này [4], [6].

Việc triển khai ứng dụng phẫu thuật nôi soi trong hoàn cảnh cấp cứu, với điều kiện thực tế ở nước ta còn nhiều khó khăn do kíp trực không đổng bô, thiếu các điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật, đôi khi thiếu phẫu thuật viên quen với thao tác khâu, buôc chỉ trong nôi soi, do tâm lý kíp trực sợ phẫu thuật phức tạp, mất thời gian, hoặc do nghi ngờ tính an toàn của phẫu thuật.

Làm sao để đơn giản hoá kỹ thuật ? Tổ chức cuôc mổ thế nào cho thuận lợi trong hoàn cảnh cấp cứu ? Lựa chọn và chuẩn bị bệnh nhân thế nào để hạn chế tai biến và biến chứng sau mổ ?. Đến nay, theo y văn trong nước, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu.

Với mong muốn góp phần nghiên cứu tìm môt giải pháp ứng dụng phù hợp với hoàn cảnh hiện nay, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị thủng ổ loét tá tràng” nhằm hai mục tiêu:

1. Nghiên cứu chỉ định, xây dựng quy trình kỹ thuật khâu thủng ổ loét tá tràng bằng phẫu thuật nôi soi.

2. Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật nôi soi khâu thủng ổ loét tá tràng.

 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment