Nghiên cứu vai trò đột biến gen mã hoá phối tử tự nhiên CXCR – 4 (sdf – 1) ở các cặp mẹ – con có mẹ nhiễm HIV – 1 bằng kỹ thuật RFLP

Nghiên cứu vai trò đột biến gen mã hoá phối tử tự nhiên CXCR – 4 (sdf – 1) ở các cặp mẹ – con có mẹ nhiễm HIV – 1 bằng kỹ thuật RFLP

 

 

Đột biến thay thế G thành A ở vị trí nucleotid 801 của gen SDF – 1 (liên phối tử CXCR – 4) đã được xem là yếu tố làm chậm tiến triển bệnh ở các bệnh nhân nhiễm HIV – 1. Mục tiêu: (1) Xác định tỷ lệ đột biến này ở 37 sản phụ bị nhiễm HIV – 1 và con của họ; (2) Bước đầu đánh giá vai trò của đột biến này trong việc lây truyền HIV từ mẹ sang con ở giai đoạn thai nằm trong tử cung. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 37 người mẹ được chẩn đoán HIV – 1(+) bằng kỹ thuật PCR sử dụng ADN tách từ máu ngoại vi của người mẹ và máu cuống rốn của con. PCR khuyếch đại SDF – 1 và cắt bằng HpaII để xác định đột biến. Kết quả: (1) Tỷ lệ đột biến của gen SDF – 1 như sau: ở mẹ đồng hợp tử là 5,41%, dị hợp tử là 45,94%; ở con thì đồng hợp tử 2,70%, dị hợp tử 35,14%. (2) 2/37 trẻ sơ sinh PCR HIV(+) không có đột biến gen SDF – 1 và là con của 2 bà mẹ cũng không có đột biến này. Tất cả các trường hợp mẹ có mang đột biến đồng hợp tử hay dị hợp tử của gen mã cho SDF – 1 con của họ sinh ra đều không nhiễm HIV – 1. Kết luận: các tác giả đã phát hiện đột biến SDF1 và bước đầu chứng minh vai trò của nó trong việc lây truyền HIV ở giai đoạn thai nằm trong tử cung.

Đại  dịch HIV/AIDS  đang là vấn  đề quan tâm của  xã  hội  nói  chung và  ngành  y tế  nói  riêng. Năm 1986, trên thế giới mới chỉ có 100.000 người bị nhiễm HIV thì tới năm 2005 đã có khoảng 40,4 triệu người bị nhiễm HIV (WHO). Phương thức lây truyền chủ yếu là theo đường tình dục, chiếm 70 – 80%, sau đó đến đường mẹ – con 10 – 20%, còn lại là đường truyền máu, bệnh nghề nghiệp; trẻ sơ sinh có thể nhiễm HIV từ mẹ ở giai đoạn: thai nằm trong tử cung, giai đoạn thai đi qua đường  sinh  dục  mẹ  lúc  chuyển  dạ,  giai đoạn cho con bú.
Ở Việt Nam, tính đến 31/05/2007 có 126.543 người  nhiễm  HIV,  số  trường  hợp  chuyển  sang AIDS là 24.785, số người chết do AIDS là 13.874 [8]. Từ nhiễm HIV chuyển thành AIDS là cả một quá trình virus xâm nhập vào tế bào TCD4, sau đó gây  nhiễm các  tế bào  khác. Quá trình nhân  lên và xâm nhiễm càng nhiều thì bệnh nhân sẽ tiến triển thành AIDS ngày càng nhanh chóng. Để xâm  nhập  và  phát  triển  tế bào  TCD4, virus  HIV phải gắn gp120 với các thụ thể trên bề mặt tế bào TCD4. Ở giai đoạn sớm HIV sử dụng đồng thụ thể CCR5 có ái tính M (Macrophage). Còn ở giai đoạn muộn thì nó sử dụng đồng thụ thể CXCR4 ái tính với  tế bào  lympho  T. Nếu  có đột  biến  hoặc có  yếu  tố  làm  biến  đổi  cấu  trúc  hoặc  làm  khoá các đồng thụ thể này thì sẽ làm mất chỗ gắn của virus do đó HIV không xâm nhập được vào tế bào [3, 4, 5, 6].
 

SDF – 1 (Stromal delive factor) là liên phối tử tự nhiên của CXCR – 4, khi tăng hoạt động thì nó gắn vào CXCR – 4 chiếm chỗ và gp120 của HIV không có chỗ gắn và không xâm nhập được vào trong tế  bào.  Năm  1998, Winkler C và  cộng  sự thấy rằng nếu ở vùng không sao chép (UTR) 801

 

G bị thay thế bằng A của gen mã cho SDF – 1 thì sẽ làm hoạt hoá gen khởi động tạo nên nhiều SDF

 

– 1 và gây phong bế hoàn toàn CXCR – 4 làm cho virus  không  vào  được  tế  bào,  bệnh  tiến  triển chậm [10].

 

Vậy  đột  biến  này  có  hay không  ở  các  bệnh nhân nhiễm HIV ở Việt Nam? Để trả lời cho câu hỏi này chúng tôi tiến hành đề tài: “Xác định đột biến của gen mã cho phối tử tự nhiên CXCR – 4

 

(SDF – 1) ở các cặp mẹ – con có mẹ nhiễm HIV bằng kỹ thuật PCR và PRLP” với các mục tiêu:

 

1. Xác định tỷ lệ đột biến G -> A ở vị trí 801 của gen mã cho SDF – 1 ở 37 sản phụ bị nhiễm HIV – 1 và con của họ.

 

2. Bước đầu đánh giá vai trò của đột  biến này trong việc lây truyền HIV từ mẹ sang con ở giai đoạn thai nằm trong tử cung.

 

I. ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU

 

1. Đối tượng nghiên cứu

ADN  của  37 sản  phụ  tuổi  từ  18 – 35  được chẩn  đoán  nhiễm  HIV  –  1  dương tính  (HIV(+)) bằng kỹ thuật PCR sử dụng 03 loại mồi khuyếch đại vùng C2V3 (gp120), p17 và gp41 của HIV – 1. Trong đó:  09 bệnh  nhân  nhiễm  HIV(+) là 3 năm, 28 bệnh nhân nhiễm HIV(+) là 2 năm.
 

Tất  cả  37 bệnh  nhân  đều  chưa có  các  triệu chứng lâm sàng khác kèm theo như phức hợp liên quan đến AIDS (ARC): tổn thương ở miệng và da, nhiễm Herpes Simplex tái đi tái lại, tiêu chảy nhiều đợt, sốt thất thường, sụt cân < 10% trọng lượng  cơ thể  không  rõ  lý  do, nấm  âm  đạo,  nấm miệng… các bệnh lây truyền qua đường tình dục, số lượng TCD4 > 200/µl.

 

ADN  của  37 trẻ  sơ sinh  là  con của  những người mẹ trên được lấy máu từ cuống rốn.

 

(ADN của  nhóm  đối  tượng  này  được  lấy  của đề   tài   cấp   Bộ   Y  tế   năm   2003  –  2005  do PGS.TS. Phan Thị Thu Anh làm chủ nhiệm, được bảo quản ở – 800C).

 

2. Phương pháp nghiên cứu

 

Nguyên lý kỹ thuật RFLP (Restriction Fragment Length Polymorphisms): sử dụng enzym cắt để xác định đột biến, nó cho phép so sánh các ADN của các đối tượng khác nhau và phát hiện đột biến tự nhiên bằng việc xuất hiện hay biến mất vị trí cắt giới hạn. Hai đoạn ADN có trình tự giống hệt nhau và sử dụng enzym cắt sẽ đưa ra các đoạn giống hệt nhau. Trái lại nếu vị trí cắt giới hạn bị mất thường tương đương với  đột  biến  tự  phát,  các  đoạn  cắt không có kích thước giống hệt nhau.

 

Bước 1: PCR khuyếch đại các  gen  mã cho SDF – 1

 

Nguyên liệu: ADN được tách chiết từ 5 ml máu  ngoại  vi của  mẹ  và  5 ml máu  cuống  rốn của con.

Đo OD để xác định nồng độ ADN sau đó pha loãng cho có nồng độ là 25 ng/µl.
 

Thành phần phản ứng:

 

Mix PCR gồm có: PCR mix 2X (Promega), mồi xuôi (140ng/µl) (Promega), mồi ngược (140ng/µl) (Promega), H20,  ADN  khuôn  (Promega): 100ng cho một phản ứng 50µl.

 

Riêng ống chứng âm cộng với 5,0µl nước cất.

 

Mồi để khuyếch đại gen SDF – 1: Trình tự mồi:

 

SDF1 F5 CAG TCA ACC TGG GCA AAG CC 3

 

SDF1 R5 AGC TTT GGT CCT GAG AGT CC 3 Bình  thường  đoạn  gen cần  khuyếch  đại  là

 

300bp bao gồm cả vị trí nucleotid 801 của gen.

 

Bước 2: sử dụng enzym cắt để phát hiện đột biến SDF – 1

 

Nguyên liệu: sản phẩm PCR sau khi khuyếch đại gen mã cho SDF – 1.

 

Cắt bằng HpaII 6UI/ phản ứng (Promega) vị trí cắt tại nucleotid 801 của đoạn gen. Đột biến phát hiện là thay thế nucloeid G bằng A của gen SDF – 1.

 

Vị trí cắt: 5 … C ¯ CG G….3 3 … G GC − C…5

Sau  khi cắt  điện  di bằng  agarose  1% trong 2giờ 30 phút trong TBE pH 820ml hỗn hợp sau ủ
 

+ 4µl xanh bromo phenol 5X.

 

Sau khi điện  di xong nhuộm  bằng  Ethidium Bromide và đọc kết quả bằng đèn UV.

 

Đọc kết quả:

 

Chứng không đột biến là người bình thường.

 

Chứng  đột  biến  sẽ  so  sánh  với  thang 100bp ADN ladder.

 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment