Nghiên cứu về kích thước và đặc điểm mảng xơ vữa bằng siêu âm nội động mạch vành tại thân chung động mạch vành trái và động mạch liên thất trước đoạn gần có hình ảnh bình thường trên chụp mạch vành
Bệnh mạch vành là một bệnh rất trầm trọng và rất phổ biến, nhất là ở các quốc gia phát triển. Nó đang là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở các quốc gia phương Tây. Bệnh cũng đang trở thành phổ biến ở các nước đang phát triển. Bệnh mạch vành, với các biến cố cấp tính như nhồi máu cơ tim và các biến chứng muộn như suy tim, là gánh nặng bệnh tật toàn cầu (15). Bệnh lý tại động mạch vành trái rất thường gặp. Trong đó, tổn
thương TCĐMVT (hẹp trên 50%) ở những người có bệnh động mạch vành khoảng 2,5¬10% (1). Bệnh nhân hẹp TCĐMVT có tiên lượng xấu với chỉ có V số bệnh nhân không điều trị sống sót sau 2 năm (2). Các bệnh nhân hẹp TCĐMVT trong một năm chờ đợi phẫu thuật có tỷ lệ tử vong là 21% và chỉ 46% bệnh nhân bệnh nhân sống không có biến cố (3). Điều trị nội khoa, tỷ lệ sống sót sau 2 năm là 61%, 2,5 năm là 65%, 3 năm là 50%, 5 năm là 49%. Những bệnh nhân với hẹp nặng động mạch liên thất trước (ĐMLTT) đặc biệt là đoạn gần có tiên lượng về tim mạch xấu hơn so với những bệnh nhân có bệnh động mạch vành không liên quan đến ĐMLTT (10) với tăng tỷ lệ tử vong 1 – 3 năm (7).
Từ năm 1957, CMV cản quang đã trở thành tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán bệnh mạch vành. Nó cũng rất hữu dụng trong hướng dẫn can thiệp động mạch vành qua da. Do có giới hạn là chỉ ghi hình “bóng” của lòng mạch trên một mặt phẳng, CMV không thể đánh giá được cấu trúc thành mạch, đo đạc kích thước chính xác bị hạn chế, đặc biệt với các sang thương lệch tâm, các vị trí mạch máu bị rút ngắn hay chồng ảnh. Hiện nay, siêu âm nội mạch (IVUS: intravascular ultrasound) với nhiều ưu thế đã trở thành một công cụ hỗ trợ cho chụp mạch vành trong chẩn đoán và điều trị bệnh mạch vành. IVUS cho hình ảnh cắt ngang của mạch máu nên có thể đánh giá chính xác kích thước mạch máu, không bị giới hạn bởi góc nhìn, mạch máu bị chồng ảnh, rút ngắn, đánh giá chính xác cấu trúc thành mạch, đặc điểm mảng xơ vữa, lựa chọn chính xác kích thước bóng và stent trong can thiệp. Trong nghiên cứu CLOUT, khi lựa chọn kích thước bóng bằng đường kính giữa thành mạch đoạn tham khảo trên IVUS, tỷ số bóng/mạch máu tăng từ 1,12±0,15 đến 1,30±0,17 (p<0,0001) và đường kính lòng mạch tối thiểu trên chụp mạch vành tăng từ 1,95±0,5 đến 2,21±0,5 mm, với tỷ lệ bóc tách trên chụp mạch vành không tăng (37% so với 40%, p=0,67) (13).
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích