Ngưng tập tiểu cầu với adp và collagen ở bệnh nhân có rối loạn chuyển hoá Lipid
Hội chứng tăng lipid máu từ lâu đã được coi là một yếu tố nguy cơ quan trọng trong bệnh VXĐM và các bệnh mạch vành. Cholesterol là thành phần quan trọng nhất trong các lipid ứ đọng ở mảng vữa. Cholesterol máu càng cao thì tần xuất mắc bệnh VXĐM và các tai biến tim mạch càng lớn nhất là ở những người cao tuổi. Mặt khác, VXĐM lại là một trong những bệnh tim mạch dễ gây tử vong nhất do các biến chứng đột ngột của nó như nhồi máu não, nhồi máu cơ tim… [1, 2, 4]. Khi VXĐM nặng, các mảng vữa xơ có thể hoại tử gây loét hoặc nứt vỡ làm tổn thương nội mạc, tạo điều kiện cho tiểu cầu bám dính vào. Thêm nữa, chính mảng VXĐM thường làm cho khẩu kính lòng mạch hẹp lại, làm thay đổi tốc độ dòng máu, gây rối loạn huyết động dẫn đến kích hoạt hệ đông máu, tiểu cầu kết dính, thay hình đổi dạng, ngưng tập và xuất tiết biến fibrinogen thành fibrin và hình thành cục máu đông trong lòng mạch. Do đó, nghiên cứu những thay đổi về chức năng của tiểu cầu thông qua việc đánh giá độ NTTC trên những BN có rối loạn chuyển hoá lipid là rất cần thiết, nó sẽ giúp cho việc phòng ngừa huyết khối có hiệu quả và hạn chế được các biến chứng của bệnh. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đo độ NTTC với hai chất kích tập là ADP và collagen trên những BN rối loạn chuyển hoá lipid đến khám tại bệnh viện TWQĐ 108 từ tháng 5/2004 đến tháng 8/2006 với mục tiêu:
1. Đánh giá sự thay đổi độ NTTC với ADP và collagen trên BN có rối loạn chuyển hoá lipid.
2. Tìm hiểu mối liên quan giữa độ NTTC đó với các loại rối loạn lipid máu khác nhau.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên hai nhóm đối tượng:
Nhóm bệnh nhân tăng lipid máu: Gồm 128
BN trung cao tuổi (từ 45 – 74 tuổi), được chẩn đoán lần đầu là có rối loạn chuyển hoá lipid có xét nghiệm lipid máu (cholesterol toàn phần, triglyceride và các lipoprotein HDL và LDL) tăng cao hơn bình thường, những BN này chưa có những triệu chứng lâm sàng và những biến đổi về cận lâm sàng biểu hiện tổn thương của các cơ quan nội tạng, và được xếp vào các typ rối loạn lipid máu hay gặp theo phân loại của Fredickson: Typ IIa: Tăng cholesterol máu đơn thuần (40 BN). Typ IIb: Tăng cholesterol máu hỗn hợp (36 BN). Typ IV: Tăng triglyceride (52 BN).
Nhóm chứng: Gồm 88 người trung cao tuổi khoẻ mạnh, có độ tuổi tương ứng được lựa chọn từ nhân viên trong bệnh viện, cán bộ cao cấp đến khám sức khoẻ định kỳ tại bệnh viện, không có bệnh cấp và mạn tính tiến triển, các xét nghiệm về lipid máu, glucose máu, chức năng gan thận trong giới hạn bình thường.
2. Phương pháp nghiên cứu
– Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang có đối chứng.
– Các kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu:
+ Đếm số lượng tiểu cầu (TC) trên máy Cell Dyn 1800 (Mỹ).
+ Các xét nghiệm sinh hoá: Nhóm mỡ, đường, chức năng gan, thực hiện trên máy Hitachi 9000.
+ Đo độ NTTC với 2 chất kích tập là ADP (5 ìM) và collagen (2 ìg/ml) trong huyết tương giàu tiểu cầu trên máy đo NTTC Chrono – Log CA
– 560 của Mỹ bằng phương pháp đo trở kháng. Đây là phương pháp đo độ NTTC nhờ một đầu dò điện cực gồm có 2 dây kim loại được cắm vào cuvette chứa mẫu huyết tương giàu tiểu cầu cần đo. Đầu dò được cung cấp một dòng điện thế (millivolt). Thiết bị sẽ đo trở kháng điện ở vùng giữa 2 dây kim loại. Trong một khoảng thời gian ngắn ở trạng thái cân bằng, một lớp TC đơn hình thành trên những phần lộ ra của những dây kim loại tạo ra một giá trị trở kháng ổn định. Điểm chuẩn trở kháng ổn định được thiết lập một giá trị trở kháng là 0 ohm. Khi một chất kích tập được cho thêm vào mẫu đo trong cuvette, những TC trong mẫu được kích thích ngưng tập thêm vào lớp TC đơn nằm trên dây kim loại. Sự ngưng tụ của những TC này tạo nên một trở kháng cho dòng điện. Sự thay đổi về trở kháng phụ thuộc vào mức độ của TC ngưng tập và được đo bằng đơn vị ohm. Thời gian đo khoảng 4 – 6 phút kể từ khi cho chất kích tập.
– Xử lý kết quả bằng chương trình Stata 8.0
– Theo kết quả nghiên cứu trong nghiên cứu này và theo đề xuất của một số tác giả trong các nghiên cứu về NTTC [3], chúng tôi đánh giá NTTC tăng khi độ NTTC cao hơn X + 1SD và giảm khi độ NTTC nhỏ hơn X – 1SD của nhóm
chứng.
Tăng lipid máu là một yếu tố nguy cơ quan trọng của bệnh vữa xơ động mạch (VXĐM), các mảng vữa xơ có thể hoại tử hoặc nứt vỡ làm tổn thương nội mạc, tạo điều kiện cho tiểu cầu kết dính, ngưng tập tạo cục máu đông trong lòng mạch. Mục tiêu: (1) Đánh giá sự thay đổi độ ngưng tập tiểu cầu (NTTC) với ADP và collagen trên bệnh nhân có rối loạn chuyển hoá lipid. (2) Tìm hiểu mối liên quan giữa độ ngưng tập tiểu cầu đó với các loại rối loạn lipid máu khác nhau. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có đối chứng trên 128 bệnh nhân (BN) rối loạn chuyển hoá lipid (40 bệnh nhân typ IIa, 36 bệnh nhân typ IIb và 52 bệnh nhân typ IV) và nhóm chứng (88 người) được đo độ ngưng tập tiểu cầu với ADP và collagen. Kết quả: Số lượng tiểu cầu không có sự khác biệt (p > 0,05), nhưng độ ngưng tập tiểu cầu với ADP và collagen đều tăng cao có ý nghĩa (p < 0,01) so với nhóm chứng ở cả 3 typ IIa, IIb và IV. Nồng độ triglyceride huyết tương có mối tương quan thuận với độ ngưng tập tiểu cầu với ADP và collagen (r = 0,335 và 0,332). Mối tương quan này giữa cholesterol và độ ngưng tập tiểu cầu với ADP là r = 0,304. Kết luận: Ngưng tập tiểu cầu tăng cao ở bệnh nhân rối loạn lipid máu và ngưng tập tiểu cầu có mối tương quan thuận với nồng độ lipid trong huyết tương.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích