NGUY CƠ TRÊN THAI KỲ CỦA THAI PHỤ VỊ THÀNH NIÊN SANH TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG
NGUY CƠ TRÊN THAI KỲ CỦA THAI PHỤ VỊ THÀNH NIÊN SANH TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG
Huỳnh Thị Bạch Tuyết*, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định các yêu tô’ liên quan đến cuộc sanh của thai phụ vị thành niên và thai phụ hơn 19 tuôĩ đến sanh tại bệnh viện Hùng vương.
Phương pháp: Từ 05/2009 đến 09/2009 tại bệnh viện Hùng vương Tp HCM, nghiên cứu bệnh chứng trên 756 thai phụ chia 2 nhóm, nhóm bệnh có 252 thai phụ vị thành niên, nhóm chứng có 504 thai phụ hơn 19 tuôi. Các thai phụ được phỏng vấn trực tiêp với bảng câu hỏi vào ngày hậu sản thứ 2. Các yêu tô’quan tâm: sanh nhẹ cân, cách sanh, sanh non, tiền sản giật, thiêu máu, nhiễm HIV, nhiễm trùng sau sanh và chảy máu và tình trạng hôn nhân.
Kết quả: Khi mang thai VTN có nguycơthiêu máugấp2 lầnso vớithai phụtrưởngthành vớiORhiệu
chỉnh = 1,96, KTC 95% (1,28 – 3,00).. Sanh mô7ở VTN thấp hơn 2 lần so với người trưởng thành với OR hiệu chỉnh 0,45, KTC 95% (0,29 – 0,68). Hôn nhân chỉ được chấp nhận từ 1 phía ở VTN cao gấp 11 lần so với người trưởng thành với OR hiệu chỉnh = 10,7, KTC 95% (4,6 – 24,8).
Kết luận: Việc lập gia đình và mang thai ở tuôi vị thành niên là thực trạng đáng quan tâm; cần chú ý các đôi tượng này cả về mặt tâm lý và xã hội, không khuyên khích trẻ mang thai và sanh đẻ ở độ tuổi này.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo đinh nghĩa của Tổ chức Y tế’ thế’ giới (WHO), vị thành niên (VTN) là những người từ 10 đến 19 tuổi(12). Đây là giai đoạn chiu nhiều tác động bởi những yếu tố’ kinh tế, văn hóa, xã hội. Cũng trong giai đoạn này, trẻ có những thay đổi mạnh mẽ về thể chất và tâm sinh lý tạo nên sự chuyển tiếp từ thiếu niên thành người lớn thật sự. Với trên 1,2 tỷ người, chiếm 1/6 tổng dân số’ thế giới, VTN đã và đang trở thành nhóm đối tượng thu hút sự quan tâm của nhiều chương trình chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe sinh sản.
Kết quả của nhiều nghiên cứu trên thế’ giới cho thấy, mang thai ở tuổi VTN liên quan đến nhiều nguy cơ về sức khỏe và xã hội. Thai kỳ của trẻ VTN có nguy cơ cao bi thiếu máu, sanh non, sanh nhẹ cân(1510). Tỷ lệ mổ lấy thai cũng cao hơn so với nhóm tuổi từ 20 trở lên vì thai trình ngưng tiến triển, ngôi thai bất thường, thai suy cấp trong chuyển dạ(1,10). Các nghiên cứu cũng ghi nhận tỷ lệ những kết cục thai kỳ nguy hiểm hơn như băng huyết sau sanh (BHSS), nhiễm trùng hậu sản (NTHS) ở tuổi VTN khá cao(1). Biến chứng liên quan đến thai kỳ và sanh đẻ là một trong những nguyên nhân tử vong hàng đầu ở bé gái từ 15 – 19 tuổi(6).
Việt Nam có 23,8 triệu người trong tuổi VTN, chiếm 31% dân số’. Số’ liệu của Chi cục Thống kê, năm 1999, thành phố’ Hồ Chí Minh có 1.013.738 VTN, chiếm 18,2% dân số'(7). Thống kê của Chi cục Thống kê năm 1995 – 2000 có đến 5% trẻ gái dưới 18 tuổi và 15% trẻ dưới 19 tuổi trở thành những bà mẹ trẻ. Tại một số’ quốc gia, có 30 – 60% thai kỳ của trẻ VTN kết thúc bằng bỏ thai(12). Số’ lượng VTN đi sanh, tai biến liên quan đến thai kỳ và sanh đẻ ở nhóm tuổi này hiện vẫn chưa được báo cáo chính thức tại các bệnh viện Sản Phụ khoa. Đó là lý do chúng tôi tiến hành nghiên cứu khảo sát nguy cơ trên thai kỳ của thai phụ vi thành niên sanh tại bệnh viện Hùng Vương.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất