Nhận thức chăm sóc thông tiểu của người nhà chăm sóc người bệnh tại bệnh viện Việt Đức năm 2012
Nhận thức chăm sóc thông tiểu của người nhà chăm sóc người bệnh tại bệnh viện Việt Đức năm 2012.Trong khi xã hội ngày càng phát triển thì các mô hình bệnh tật cũng ngày càng đa dạng. Do vậy làm cho tình trạng quá tải bệnh viện (BV) ngày càng trầm trọng. Hiện nay tại Việt Nam, tỷ lệ người bệnh(NB)/giường bệnh là 488/1 (20,5 giường /1 vạn dân) vượt quá chỉ tiêu 185 người /giường (303 người /giường), tỷ lệ Điều dưỡng (ĐD) trên 1 Bác sĩ (BS) là 1,9-2,5 ít hơn so với quy định 1,1-2,5 ĐD/BS (3-3,5 ĐD/BS) [6]. Tình trạng quá tải đang làm cho môi trường BV mất dần tính an toàn. Tại Mỹ có khoảng 2 triệu người mắc nhiễm khuẩn ( NK) BV/năm, kéo theo 5-10% người khác bị ảnh hưởng, chi phí vào khoảng 5-10 tỷ USD và khoảng 90.000 người tử vong có liên quan đến NK BV[2]. Tại Việt Nam, số ngày nằm viện tăng thêm 8, chi phí tăng thêm 2 triệu VNĐ[2]. Là một BV tuyến Trung Ương, Việt Đức cũng không tránh khỏi tình trạng quá tải này. Điển hình tại khoa Phẫu thuật Tiết niệu (TN), tỷ lệ ĐD/BS là 1,53/1 (20/13), thiếu gần một nửa số ĐD so với quy định (3/1-3,5/1)[6], tổng khối lượng chăm sóc NB là 242,5 giờ/ngày, mỗi ĐD phải làm việc trung bình 12,125 giờ/ ngày, gấp khoảng 1,5 lần (8 giờ/ngày) theo quy định mới đảm bảo được chất lượng chăm sóc người bệnh (NB)[11]. Khoa TN là khoa ngoại chuyên điều trị về các bệnh hệ TN nên hầu hết NB khi tiến hành phẫu thuật điều được thông tiểu phục vụ cho quá trình điều trị. Mà theo Trung Hải: “Việc vệ sinh các thông tiểu không tốt là nguyên nhân chính gây ra tình trạng nhiễm khuẩn sau phẫu thuật”[7]. Hiện nay, trung bình cứ 1 NB vào viện thì có 2 người nhà (NN) vào theo chăm sóc.
Trong quá trình điều trị, nhân viên y tế (NVYT) thiên về chăm sóc y khoa còn NN thiên về chăm sóc dinh dưỡng và vệ sinh. Vậy kết quả chăm sóc điều trị cho NB phụ thuộc vào hai bên là NVYT và NN. Trong khi chất lượng nguồn lực của ngành y tế ngày càng tăng, thay bằng các dụng cụ y tế có thể dùng lại được thì các BV đã đưa vào sử dụng các dụng cụ dùng một lần có tính đảm bảo vô khuẩn, tiệt khuẩn cao thì lại chưa có biện pháp triệt để nào phòng và kiểm soát NK từ phía NN. Khi việc chăm sóc ống thông không đảm bảo thì vô tình NN đã gây NK cho NB. Theo chúng tôi tìm hiểu được thì các công trình nghiên cứu về vấn đề NK mới chỉ tập chung vào tỷ lệ NK, tỷ lệ NK do các thao tác của NVYT, so sánh tỷ lệ nhiễm do các dụng cụ kỹ thuật với nhau hay phân lập các loại VK gây ra NK BV nhưng hầu như chưa có tác giả nào tiến hành nghiên cứu về NK BV được gây ra do NN chăm sóc NB. Vậy để ĐD có thể định hướng được các yếu tố gây ra NK từ phía NN tham gia chăm sóc và có cách phòng, kiểm soát tốt, cũng như lượng giá được kiến thức chăm sóc thông tiểu của NN sau khi được ĐD hướng dẫn, chúng tôi quyết định thực hiện đề tài nghiên cứu: “Nhận thức chăm sóc thông tiểu của người nhà chăm sóc người bệnh tại bệnh viện Việt Đức năm 2012” với hai mục tiêu: đánh giá kiến thức và những khó khăn gặp phải của NN khi chăm sóc thông tiểu cho NB. Mô tả những yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức của NN khi chăm sóc thông tiểu cho NB.