NHẬN XÉT BƯỚC ĐẦU DÙNG ĐƯỜNG MỔ LIÊN SƯỜN 10 TRƯỚC BÊN NGOÀI PHÚC MẠC TRONG PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ BƯỚU CHỦ MÔ THẬN TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN
NHẬN XÉT BƯỚC ĐẦU DÙNG ĐƯỜNG MỔ LIÊN SƯỜN 10 TRƯỚC BÊN NGOÀI PHÚC MẠC TRONG PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ BƯỚU CHỦ MÔ THẬN TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN
Nguyễn Tuấn Vinh, Bùi Văn Kiệt
TÓM TẮT :
Mục tiêu nghiên cứu : Mục tiêu tổng quát: Đánh giá tính khả thi của đường mổ liên sườn 10 ngoài phúc mạc. Mục tiêu chuyên biệt: Đánh giá các thuận lợi và khó khăn của đường mổ liên sườn 10 ngoài phúc mạc. Đánh giá các biến chứng gần của đường mổ liên sườn 10 ngoài phúc mạc.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng: Tất cả BN được chẩn đoán bướu chủ mô thận, quá chỉ định làm phẫu thuật nội soi. Thời gian tháng 1/2008-1/2010 tại Khoa Niệu B, BV. Bình Dân.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngangKết quả nghiên cứu: Tổng số ca: Nam: 14ca, nữ: 10 ca. Trong nghiên cứ này chúng tôi có: 3 trường hợp cắt bán phần thận cực dưới (RCC), 1 trường hợp cắt bán phần cực trên thận P (bướu AML), 1 trường hợp cắt toàn phần do bướu AML thận T vỡ xuất huyết quanh thận. Tuổi: 54 ± 6. Vị trí bướu: Bên P: 13, bên T: 11, cực trên: 5 ca (bên P: 3, bên T: 2), cực giữa: 5 (bên P: 2, bên T: 3), cực dưới: 14 (bên P: 8, bên T: 6). Kích thước bướu: 3 ± 1,5 cm. Kết quả phẫu thuật: Thời gian mổ: 120 phút ± 15, lượng máu máu: Không đáng kể, biến chứng trong mổ: Rách màng phổi: 5 (bên P: 3, bên T: 2), rách phúc mạc: 2 (bên P). Thời gian gas sau mổ: 1 – 2 ngày. Thời gian nằm viện: 7 ± 2,5 ngày. Tình trạng đau hậu phẫu: Không có trường hợp nào đau mức độ nhiều.Bàn luận: Tất cả các TH trước đây nghiên cứu chúng tôi áp dụng đường mổ dưới bờ sườn mở rộng theo kiểu Kocher(7,10) giúp dễ dàng khống chế cuống thận, TM thắt lưng, TM sinh dục và vào vùng sau phúc mạc dễ dàng, bảo đảm được nguyên tắc phẫu thuật cắt rộng trong ung thư thận, kể cả có thể mở TM chủ dưới để lấy chồi ung thư còn giới hạn dưới cơ hoành. Chúng tôi nhận thấy tình trạng liệt ruột và đau hậu phẫu kéo dài, Mặt khác trong lô nghiên cứu 34 ca 1999 – 2001 chúng tôi có 2 ca tắt ruột sau mổ và 1 ca di căn ổ bụng sau 2 năm. Từ năm 2008, chúng tôi sử dụng đường mổ liên sườn 10, trước bên, ngoài phúc mạc để phẫu thuật cắt thận mở rộng trong những trường hợp bướu chủ mô không quá lớn .Do có kinh nghiệm từ phẫu thuật lấy thận ghép từ người cho thận, chúng tôi nhận thấy rằng vào bộ lộ cuống thận từ lúc đầu rất dễ và đường mổ làm phẫu trường đủ rộng để có thể lấy toàn bộ thận, mỡ quanh thận, niệu quản lưng… trong thời gian hậu phẫu bệnh nhân có gaz sớm và đỡ đau vết mổ hơn, đa số các BN giảm cảm giác tê nhẹ vùng dưới vết mổ, không có TH nào biểu hiện suy hô hấp hay biến chứng nặng nề do đường mổ gây ra trong thời gian hậu phẫu. Biến chứng trong lúc mổ đa số trường hợp là rách màng phổi, nhưng xử trí đơn giản và không để lại di chứng. Dĩ nhiên đường mổ ngoài phúc mạc sẽ giảm đáng kể tỉ lệ tắt ruột và di căn ổ bụng.
Kết luận: Đường mổ qua liên sườn, ngoài phúc mạc có tính khả thi và đã giúp giảm thời gian và biến chứng của phẫu thuật cắt thận mở rộng trong điều trị bướu chủ mộ thận, cắt thận bán phần và bướu tuyến thượng thận.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất