Nhận xét chẩn đoán, thái độ xử trí rau tiền đạo ở thai phụ có sẹo mổ đẻ cũ tại bệnh viện Phụ sản Trung ương trong 2 năm 2008 – 2009
Luận văn Nhận xét chẩn đoán, thái độ xử trí rau tiền đạo ở thai phụ có sẹo mổ đẻ cũ tại bệnh viện Phụ sản Trung ương trong 2 năm 2008 – 2009.Rau tiền đạo là bệnh cấp cứu sản khoa thường gặp. Tỷ lệ RTĐ trước đây khoảng 0,5% [2], gần đây có xu hướng tăng lên. Tại BVPSTW năm 1997-2000 tỷ lệ RTĐ là 2,14% [20].
RTĐ gây nhiều biến chứng, tỷ lệ tử vong cho mẹ và con cao. Trước đây RTĐ gây tỷ lệ tử vong cho mẹ tương đối cao, tỷ lệ này giảm từ 37,2% năm 1934 còn 3,1% năm 1979 [36]. Gần đây nhờ việc chăm sóc và quản lý thai nghén chặt chẽ, kỹ thuật hồi sức cấp cứu có nhiều tiến bộ nên tỷ lệ tử vong cho mẹ và con giảm đáng kể. Tuy nhiên các biến chứng của RTĐ gây ra cho mẹ như thiếu máu do chảy máu trong quá trình dưỡng thai cũng như sau mổ, truyền máu nhiều lần, cắt tử cung do không cầm được máu hoặc loại rau cài răng lược còn cao. Điều trị RCRL rất khó khăn, thường phải cắt tử cung, gây nhiều biến chứng nặng nề, nhất là ở các phụ nữ trẻ còn có nhu cầu sinh đẻ. Theo Nguyễn Đức Hinh [13] tỷ lệ rau cài răng lược của RTĐ là 5,4%. Theo Sciocia A.L, những sản phụ bị RTĐ có sẹo mổ TC thì tỷ lệ rau bám chặt là 16-25% [81]. Nguy cơ RTĐ gây ra cho thai là đẻ non, thai chậm phát triển trong tử cung, thai lưu, ngôi bất thường, tử vong sơ sinh…Tiên lượng cho con ngày càng tốt hơn nhờ những tiến bộ trong xét nghiệm, siêu âm, kỹ thuật mổ lấy thai, điều kiện chăm sóc sơ sinh.
Mối liên quan giữa MLT và RTĐ đã được nhiều tác giả nghiên cứu và khẳng định: Tiền sử MLT làm tăng nguy cơ bị RTĐ ở lần có thai sau. Tỷ lệ gặp RTĐ ở những bệnh nhân có tiển sử mổ lấy thai tùy thuộc vào số lần MLT và vào từng quần thể nghiên cứu. Theo Taylor V.M [83] nguy cơ RTĐ ở người có tiền sử MLT là 1,48%. Nghiên cứu mối liên quan giữa số lần MLT với RTĐ Ananth C.V [28] thấy MLT lần 1 nguy cơ RTĐ tăng 4,5 lần; MLT 2 lần nguy cơ tăng 7,4 lần. Một số tác giả gợi ý rằng tổn thương niêm mạc tử cung và cơ tử cung do sẹo mổ tử cung có nguy cơ gây RTĐ trong lần có thai sau.
Ngày nay, do tỷ lệ mổ lấy thai tăng lên, đồng nghĩa với bệnh nhân bị rau tiền đạo có vết mổ đẻ cũ ngày càng tăng lên, nhiều tác giả đã nghiên cứu sự liên quan giữa bệnh nhân bị RTĐ có SMĐC với RCRL [16], [54], [83]. Với sự tiến bộ vượt bậc của chẩn đoán hình ảnh, đặc biệt là siêu âm thì việc chẩn đoán RCRL ở thai phụ bị RTĐ có SMĐC không phải khó. Tuy nhiên, kỹ thuật mổ lấy thai ở RTĐ có SMĐC thường khó khăn hơn do dính, RCRL và nguy có tai biến cho thai phụ cao [16], [24], [54]. Vì vậy một câu hỏi được đặt ra là đứng trước một bệnh nhân bị rau tiền đạo có sẹo mổ đẻ cũ các nhà sản khoa nên có chiến lược điều trị như thế nào để nhằm tránh những tai biến cho mẹ và con?
Để nhằm giúp cho nhà sản khoa hiểu sâu thêm về RTĐ ở thai phụ có SMĐC, vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài “Nhận xét chẩn đoán, thái độ xử trí rau tiền đạo ở thai phụ có sẹo mổ đẻ cũ tại bệnh viện Phụ sản Trung ương trong 2 năm 2008 – 2009” với hai mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng RTĐ ở thai phụ có sẹo mổ đẻ cũ.
2. Nhận xét thái độ xử trí và các biến chứng RTĐ ở thai phụ có sẹo mổ đẻ cũ.