Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, và kết quả điều trị ung thư tuyến nước bọt mang tai tại bệnh viên K từ năm 2005 đến 2009
Luận văn Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, và kết quả điều trị ung thư tuyến nước bọt mang tai tại bệnh viên K từ năm 2005 đến 2009.U tuyến nước bọt (UTNB) là bênh hay gặp trong khối u vùng đầu cổ, (chiếm 2 – 4 %) [60] và 0,2-0,6 % của tất cả các loại khối u. Xấp xỉ 35% u tuyến nước bọt là ung thư, chiếm khoảng 0,5% tất cả các loại ung thư và xấp xỉ 3-5% ung thư vùng đầu cổ [53], [39].
Trong u tuyến nước bọt thì u tuyến mang tai chiếm khoảng 70-80% [53], [39], [28] và ung thư tuyến mang tai (UTTMT) chiêm tỉ lê 20% – 25% các khối u tuyến mang tai [53], [57]. Nếu tính trong ung thư tuyến nước bọt (UTTNB) thì ung thư tuyến mang tai chiếm 15% đến 32% [38].
Tỷ lê mắc hàng năm của ung thư tuyến nước bọt trên toàn thế giới là 0, 2 – 3,2/100 000 dân/năm [22], ở các nước Phương Tây 1,2- 1.5 / 100 000 dân/năm [53], [39]. Việt Nam có khoảng 0, 3 – 0,35 trường hợp mới mắc/ 100 000 dân/năm [46]. Theo tỷ lệ này, ước tính chúng ta sẽ có khoảng 278 người mới mắc / 1 năm.
Ung thư tuyến mang tai ở vị trí nông dễ thấy, nhưng phần lớn các bệnh nhân lại được phát hiện muôn khi u đã lớn, xâm lấn hoặc chèn ép mô xung quanh ảnh hưởng đến thẩm mỹ cũng như chức năng, làm cho quá trình điều trị khó khăn, tăng tỉ lệ biến chứng và tái phát sau điều trị. Triệu chứng lâm sàng của ung thư tuyến mang tai thường nghèo nàn trong khi đặc điểm mô bệnh học lại rất đa dạng phong phú với các tiên lượng khác nhau, nó đòi hỏi phải có chỉ định điều trị phù hợp. Việc thăm khám lâm sàng kỹ lưỡng, cùng với việc áp dụng các phương tiện chẩn đoán cận lân sàng như siêu âm, chụp cắt lớp vi tính hoặc công hưởng từ, chọc hút kim nhỏ, nghiên cứu mô bệnh học để quyết định phương pháp điều trị đạt hiệu quả cao.
Trong điều trị ung thư tuyến mang tai phẫu thuật là phương pháp chính đóng vai trò quyết định, xạ trị và hoá chất chỉ là bổ trợ sau phẫu thuật hoặc điều trị tạm thời khi u quá to không còn khả năng phẫu thuật hay giai đoạn muôn đã có di căn.
Trên thế’ giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về ung thư tuyến mang tai. Trong nước cũng đã có môt số tác giả nghiên cứu đến lĩnh vực này nhưng không nhiều, thời gian nghiên cứu cách đây đã khá lâu, đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng có những thay đổi theo thời gian. Đặc biệt là mỗi nghiên cứu lại đi theo môt hướng khác nhau. Kết quả điều trị của bệnh hiện đã có những tiến bô đáng kể. Vì vậy để bổ sung thêm những đánh giá mới hơn, đầy đủ hơn về bệnh ung thư tuyến mang tai, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, và kết quả điều trị ung thư tuyến mang tai tại bênh viên K từ năm 2005 đến 2009” với hai mục tiêu:
1. Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của ung thư tuyến mang tai.
2. Đánh giá đánh giá kết quả điều trị ung thư tuyến mang tai tại Bênh Viện K từ năm 2005 đến năm 2009.