Nhận xét két quả hai phương pháp do khúc xạ khách quan ở lứa tuổi trẻ em- học sinh
Nghiên cứu 435 trẻ em, học sinh Việt Nam (870 mắt) có tật khúc xạ(TKX) được phát hiện bằng một trong hai phương pháp khách quan. Kết quả cho thấy: sau tra atropine 0,5%, khi soi bóng đồng tử, tỷ lệ viễn thị tăng từ14,83% lên 22,56%, cận thị giảm từ 38,60% xuống còn 30,58% và loạn thịítthay đổi. Khi đo khúc xạ máy, tỷ lệ viễn thị tăng từ13,60% lên 22,32%, cận thị giảm từ31,03% xuống 24,88% và loạn thịít thay đổi. Có sựchênh lệch kết quảkhúc xạcó ý nghĩa thống kê khi sosánh giữa cácnhóm tuổi và thểloại TKX. Hai phươngpháp đo khúc xạ khách quan đều đơn giản,dễ sử dụng, chẩn đoán định lượng tốt cho lứa tuổi trẻ em, học sinh. Đối với những trẻquá nhỏ, chẩn đoán định tính là viễn thịhoặc kết quả đo không ổn địnhthìsửdụng thuốc liệt điều tiết, test sương mờ và biết phối hợp hai phương pháp rất có ý nghĩa.
Tại Bệnhviện Mắt TW, sốngười đến khám vì TKXchiếm khoảng 30% tổng số người đến khám, trong đó chủyếu làtrẻem và học sinh. Để đokhúc xạchính xác cho nhữngđối tượng này nhất thiết phải vận dụng vàbiết phối hợpcác phươngpháp đo mộtcáchlinh hoạt nhuần nhuyễn. Do nhu cầu đến khám quátải, nhiều cơ sở nhãn khoa đã lạm dụng máy đo khúc xạtự động mà hoàn
toàn không sửdụng phương pháp soi bóngđồng tửvới những tínhnăng ưu việt của nó.Thực tế, ởnhiều trườnghợp cósựkhác biệt lớn giữa hai kết quả đo, dẫn tới khó quyết địnhcông suất kính đeo, thậm chí đểlại hậu quảkhông nhỏ. Chính vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu:
– Nhận xét, xác định mức độtin cậy của hai phương pháp đo khúc xạ khách quan ở lứa tuổi trẻ emvà học sinh.
– Phân tích một số yếu tố liên quan
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất