Nhận xét lâm sàng và kết quả điều trị ban đầu về nhóm bệnh rối loạn chuyển hoá bẩm sinh axit hữu cơ
Rối loạn chuyển hoá bẩm sinh (RLCHBS) axit hữu cơ là rối loạn chuyển hoá trung gian bẩm sinh đặc trưng bởi tăng các axit carboxylic (axit hữu cơ không có nhóm amin) trong nước tiểu được chẩn đoán bằng phương pháp phân tích GC/MS [1]. Nguyên nhân chính của RLCHBS axit hữu cơ là thiếu hụt các enzym ti thể cần cho quá trình giáng hoá các axit carboxylic được kích hoạt bởi CoenzymA (sau quá trình cắt nhóm amin của axit amin). Hầu hết các bệnh trong nhóm này là di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường. Các RLCHBS quan trọng là những rối loạn chuyển hoá liên quan tới các axit amin chuỗi nhánh. Sự khác biệt rõ ràng nhất giữa RLCHBS axit hữu cơ và axit amin là hiện tượng tăng các chất chuyển hoá CoA trong ti thể. Lâm sàng của RLCHBS axit hữu cơ chia làm 3 thể. Thể sơ sinh xảy ra sau khoảng 1 tuần khi sinh, biểu hiện hội chứng não ngộ độc: nôn, bỏ bú, co giật, rối loạn trương lực cơ, li bì, hôn mê. Thể bán cấp xảy ra sau giai đoạn sơ sinh: các đợt hôn mê nhiễm toan ceton tái phát, li bì, thất điều, các dấu hiệu thần kinh khu trú, hội chứng Reye. Thể mạn tính hay gặp ở trẻ lớn hơn biểu hiện: chậm lớn, nôn mạn tính, chán ăn, giảm trương lực cơ, rối loạn phát triển tinh thần và vận động, nhiễm trùng tái phát. Trên thế giới nhóm bệnh RLCHBS axit hữu cơ đã được phát hiện và chẩn đoán từ những năm 40 của thế kỷ 20. Đa số các bệnh lý RLCHBS axit hữu cơ có thể chữa khỏi. Chính vì vậy, hiện nay nhóm bệnh này đang được sàng lọc sơ sinh tại các nước phát triển nhằm phát hiện sớm và điều trị kịp thời những bệnh lý chuyển hoá có thể cứu sống được.. Tỷ lệ mắc RLCHBS axit hữu cơ qua chương trình sàng lọc sơ
sinh khác nhau ở các nước: 1/30 000 ở Mỹ, 1/ 15000 ở Anh [2; 3]. Tại bệnh viện Nhi Trung ương, qua hơn 3 năm (2005 – 2008) sàng lọc nguy cơ cao RLCHBS, chúng tôi nhận thấy RLCHBS axit hữu cơ là nhóm bệnh hay gặp nhất: 37/50 bệnh nhân chiếm 74% và cũng là nhóm bệnh có tỷ lệ bệnh nhân được cứu sống cao nhất: 15/37 chiếm 40,5%. Đồng thời, đây cũng là lĩnh vực mới ở Việt Nam. Nhiều bác sỹ lâm sàng chưa có kinh nghiệm trong chẩn đoán và xử trí, cũng như nhận thức đúng về nhóm bệnh này: coi rằng hiếm gặp và không có khả năng cứu sống. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành cứu nghiên này nhằm mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm của RLCHBS axit hữu cơ.
2. Nhận xét kết quả điều trị ban đầu.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
37 bệnh nhân được chẩn đoán là RLCHBS axit hữu cơ bằng phương pháp GC/MS nước tiểu và Tandem MS máu tại học viện Shiman – Nhật Bản từ 1/2005 đến 6/2008.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu hồi và tiến cứu. Mỗi bệnh nhân có 1 mẫu bệnh án riêng.
Lâm sàng: nghiên cứu phả hệ, tiền sử sản khoa và gia đình, phát triển bệnh tật của trẻ, đặc biệt các đợt tái phát cấp tính nhưng giống nhau, các triệu chứng lâm sàng.
Xét nghiệm cơ bản: đường máu, khí máu, amoniac máu, lactate máu, xeton niệu. SGOT, SGPT, CK, LDH, urê, creatinine, điện giải đồ máu & công thức máu, chụp CT scan sọ não…
Các xét nghiệm đặc hiệu để xác định RLCHBS: định lượng các axit amin và acylcarnitine qua hệ thống Tandem MS và phân tích các axit hữu cơ qua hệ thống GC/MS.
Điều trị trong giai đoạn cấp: Nhịn ăn, truyền Glucose (10mg/kg/phút), bổ xung các Vitamin: Biotin (5 – 10mg/ngày) , Vitamin B12 (1mg/ngày), B1 (50mg – 100/ngày), B6 (50 – 100 mg/ngày), B2 (10 – 20mg/ngày), L. Carnitin (50 – 100mg/kg/ngày), điều trị các triệu chứng nếu có: hỗ trợ hô hấp, cân bằng nước điện giải, chống toan, truyền máu….
Theo dõi bệnh nhân (nếu còn sống): 6 tháng khám lại 1 lần.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích