Nhận xét lâm sàng, X-Quang, đánh giá kết quả điều trị sai khớp cắn loại II do lùi xương hàm dưới bằng khí cụ cố định
Lịch sử chỉnh nha đã có từ khoảng 1000 năm trước công nguyên. Từ đó đến nay cùng với sự phát triển của nha khoa nói chung, bộ môn chỉnh nha cũng không ngừng phát trien đe đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người bệnh. Điều trị chỉnh nha không chỉ mang lại tham mỹ cho khuôn mặt, mà còn đảm bảo chức năng ăn nhai và sự on định lâu dài của khớp can, giúp người bệnh cảm thấy tự tin hơn, cuộc sống có ý nghĩa hơn.
Ở Việt nam, tỷ lệ lệch lạc khớp cắn rất cao. Theo nghiên cứu của Đổng Khắc Tham, tỷ lệ sai khớp can trong cộng đồng là 83,25% [16]. Điều tra của Hoàng Thị Bạch Dương về lệch lạc răng hàm lứa tuổi 12 ở trường cấp II Amsterdam Hà nội cho thấy tỷ lệ lệch lạc răng rất cao 91 %, trong đó sai cắn loại I là 39%, loại II 43%, loại III 9% [1]. Theo thống kê của bệnh viện Răng hàm mặt Trung ương Hà nội năm 2009, tỷ lệ lệch lạc khớp cắn loại II chiếm hơn 28% [2].
Trong một số nghiên cứu của nước ngoài, tỷ lệ sai khớp can loại II từ 6.6 đến 29%. Theo Bishara (2000), lệch lạc khớp cắn loại II có tỷ lệ trung bình là 18%. Nghiên cứu của Helm trong 1700 trẻ em từ 9 đến 18 tuổi có 24% sai khớp can loại II [21].
Như vậy sai can loại II có tỷ lệ cao trong cộng đồng. Có nhiều nguyên nhân gây ra sai khớp can loại II, trong đó đa số các trường hợp điều trị là do lùi hàm dưới ve phía sau [12]. Sai khớp can loại II nói chung và sai can loại II do lùi XHD không những ảnh hưởng tới tham mỹ mà còn ảnh hưởng tới khớp thái dương hàm và nha chu.
Trước đây khi sự hiểu biết về khí cụ cố định còn hạn chế thì điều trị sai khớp cắn loại II do lùi xương hàm dưới chủ yếu bằng hàm chức năng, tuy nhiên hàm chức năng là lựa chọn rất sáng suốt trong giai đoạn điều trị chỉnh hình can thiệp khi bệnh nhân còn ở giai đoạn phát triến, còn ở giai đoạn điều trị toàn diện khi bệnh nhân đã thay hết các răng vĩnh viễn còn là vấn đề nan giải.
Năm 1900, Edward H.Angle (1855-1930) là người đầu tiên sáng chế ra khí cụ có nhiều khâu gắn cố định trên các răng mà hầu hết các hệ thống mắc cài thông dụng ngày nay là các dạng cải tiến của hệ thống mắc cài này [5], [10]. Đen thập niên 1980, Lawrence F. Andrew – người được coi là cha đẻ của hệ thống mắc cài điều chỉnh sẵn đã cho ra đời hệ khí cụ dây thang, đây là hệ mắc cài đầu tiên được chỉnh trước nhờ đó giảm thieu việc bẻ dây cung trong quá trình điều trị [5]. Cùng với thời gian, chỉnh nha đã trở thành một chuyên ngành rất phát triển, rất nhiều hệ thống mắc cài đã được giới thiệu cùng với nhiều vật liệu tiên tiến. Việc đạt được một khớp cắn hoàn hảo, đảm bảo sự ổn định lâu dài của khớp cắn không còn là vấn đề trong giai đoạn điều trị toàn diện nữa.
Tại Việt nam chưa có nhiều nghiên cứu ve điều trị chỉnh nha bang khí cụ cố định cho bệnh nhân sai khớp can loại II do lùi xương hàm dưới. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nhận xét lâm sàng, X-Quang, đánh giá kết quả điều trị sai khớp cắn loại II do lùi xương hàm dưới bằng khí cụ cố định” với hai mục tiêu:
1. Nhận xét lâm sàng, XQ của sai khớp cắn loại II do lùi xương hàm dưới.
2. Đánh giá kết quả điều trị sai khớp cắn loại II do lùi xương hàm dưới bằng khí cụ cố định.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích