Nhận xét sự thay đổi sắt và ferritin huyết thanh ở bệnh nhân xơ gan

Nhận xét sự thay đổi sắt và ferritin huyết thanh ở bệnh nhân xơ gan

Xơ gan là một bệnh thường gặp ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới. Ngoài những biến chứng nặng nề có thể dẫn tới tử vong, bệnh nhân xơ gan thường có triệu chứng thiếu máu. Thiếu máu có thể là hậu quả của biến chứng xuất huyết tiêu hóa (XHTH) nhưng cũng do tình trạng dinh dưỡng kém, đặc biệt ở những bệnh nhân xơ gan do lạm dụng rượu. Trong những trường hợp sau, thường gây thiếu máu hồng cầu to do thiếu cả vitamin B12 và acid folic. Tuy nhiên, khi điều trị thiếu máu ở bệnh nhân xơ gan, các thày thuốc có xu hướng bổ xung  thêm  sắt  hoặc  truyền  máu  toàn  phần nghĩa là đưa thêm một lượng sắt đáng kể vào cơ thể. Ngược lại, ở một số bệnh nhân xơ gan, đặc biệt xơ gan rượu có tình trạng dư thừa sắt tại gan, từ đó tạo vòng xoắn bệnh lí thúc đẩy quá trình xơ gan tiến triển nhanh hơn [1; 4]. Vậy có nên sử dụng máu toàn phần hoặc bổ xung thêm sắt để điều trị thiếu máu ở những BN xơ gan hay không và nếu có thì chỉ định cho những trường hợp nào? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu với mục tiêu:
1.    Tìm hiểu sự thay đổi sắt và ferritin huyết thanh ở bệnh nhân xơ gan
2.    Tìm hiểu mối liên quan giữa sự thay đổi sắt và ferritin huyết thanh với các  hình thái lâm sàng của xơ gan
I.    ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
100 bệnh nhân xơ gan có triệu chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa (TALTMC) được điều trị nội trú tại khoa tiêu hoá bệnh viện Bạch Mai từ tháng 10/2002 – 5/2003, tuổi từ 16 – 80.
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân:
– Hội chứng TALTMC:
Nếu như các triệu chứng của hội chứng TALTMC không đầy đủ, cần có thêm 1 trong 2 xét nghiệm: siêu âm tĩnh mạch cửa (TMC) giãn rộng > 13 mm hoặc tĩnh mạch lách giãn rộng >
9 mm và hoặc có giãn tĩnh mạch thực quản (TMTQ) hoặc giãn tĩnh mạch dạ dày (TMDD) phát hiện qua soi dạ dày – thực quản (DD – TQ)
–    Hội chứng suy tế bào gan: nếu như  các triệu chứng của hội chứng suy tế bào gan không đầy đủ, cần bổ xung xét nghiệm chức năng gan có rối loạn.
–    Trường hợp lâm sàng không rõ: cần  sinh thiết gan hoặc soi ổ bụng.
Bệnh nhân được chia làm 2 nhóm:
–    Có xuất huyết tiêu hoá (XHTH): Đại  tiện phân đen và hoặc nôn ra máu trong  vòng 1 tháng trước khi nhập viện.
–    Không XHTH trong vòng 1 tháng trước khi nhập viện.
Loại khỏi đối tượng nghiên cứu:
–    Xơ gan ung thư hóa, hoặc nghi ngờ ung thư
–    Những bệnh nhân xơ gan có chống  chỉ định nội soi DD – TQ: Hôn mê gan, sốc….
2.    Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang và tiến cứu
Thu thập số liệu: theo mẫu nghiên cứu thống nhất.
Cách đánh giá mức độ nặng nhẹ của xơ gan dựa theo chỉ số Child – Pugh.
Phân loại nguyên nhân xơ gan:
+ Nhóm I: Do rượu.
BN uống 40g alcol/ngày, liên tục > 3 năm.
Xét nghiệm: HbsAg (-) ; Anti HCV (-).
+ Nhóm II: do viêm gan virus B.
Xét nghiệm: HbsAg (+); Anti HCV (-).
Không tiền sử nghiện rượu.
+ Nhóm III: Do rượu phối hợp virus.
Xét nghiệm: HbsAg (+); Anti HCV (-).
BN uống 40g alcol/ngày, liên tục > 3 năm.
+ Nhóm IV: Do nguyên nhân khác.
Không tiền sử nghiện rượu.
Xét nghiệm: HbsAg (-) ; Anti HCV (-).
–    Xét nghiệm sắt và ferritin huyết thanh được làm tại khoa Sinh hoá – bệnh viện  Bạch Mai trên  máy  Hitachi  (Roch  Diagnostic)  và  ACS (Bayer diagnostic).
+  Nồng  độ  sắt  huyết  thanh  bỡnh  thường: nam 15 – 27 μmol/l, nữ 7 – 26 μmol/l.
+ Nồng độ ferritin huyết thanh bình thường: nam 30 – 200 ng/ml, nữ 15 – 150 ng/ml.
3.    Xử lý số liệu
Xử lý số liệu theo phần mềm SPSS và Epi – info 6.0.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment