NHẬN XÉT VỀ HIỆU QUẢ GHÉP TẾ BÀO GỐC TUỶ XƯƠNG TỰ THÂN TRONG ĐIỀU TRỊ MẤT ĐOẠN XƯƠNG VÀ NGẮN CHI.

NHẬN XÉT VỀ HIỆU QUẢ GHÉP TẾ BÀO GỐC TUỶ XƯƠNG TỰ THÂN TRONG ĐIỀU TRỊ MẤT ĐOẠN XƯƠNG VÀ NGẮN CHI.

 NHẬN XÉT VỀ HIỆU QUẢ GHÉP TẾ BÀO GỐC TUỶ XƯƠNG TỰ THÂN TRONG ĐIỀU TRỊ MẤT ĐOẠN XƯƠNG VÀ NGẮN CHI.

Đỗ Tiến Dũng , NguyễnVăn Lượng*, Nguyễn Thị Thu Hà*, Lý Tuấn Khải*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Kết xương căng dãn trong héo dài chi hoặc kết xương hai ổ thường yêu câu thời gian điêu trị dài. Chúng tôi đã triển khai một kỹ thuật mới là ghép tếbào gốc (TBG) tuỷ xựơng tự thân vào ổ kết xương căng dãn của xương chày.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 3/2008 đến tháng 5/2011, 30 bệnh nhân (BN) với 42 xương chày và xương đùi được kéo dài chi hoặc kết xương hai ổ tại bệnh viện của chúng tôi được ghép tế bào gốc tuỷ xương tự thân khi hết giai đoạn căng dãn.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu lâm sàng tiến cứu.
Kết quả nghiên cứu: Tuổi trung bình của bệnh nhân là 29, 2 tuổi (19-45 tuổi). Độ dài trung bình của ổ căng dãn là 6,94cm. 25 BN với 35 xương chày và 2 xương đùi đã liên xương và đã được tháo bỏ cố định ngoài mà không có biến chứng. Thời gian liên xương trung bình là 29,8 ngày/lcm ở nhóm kéo dài chi và 36,1 ngày/lcm ở nhóm kết xương hai ổ; 5 BN đang trong quá trình điêu trị. Thời gian liên xương trung bình được rút ngắn hơn so với các nghiên cứu không sử dụng tếbào gốc với P<0,05.
Kết luận: Mặc dù, đây chỉ là kết quả bước đâu, ghép khối tếbào gốc tự thân vào ổ kết xương căng dãn đã rút ngắn được thời gian liên xương cũng như thời gian điêu trị bằng cách thúc đẩy quá trình hình thành xương mới tại ổ kết xương căng dãn.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phương pháp kết xương căng dãn, được Ilizarov thực hiện từ năm 1952, để điều trị cho những BN bị ngắn chi và mất đoạn xương ở thân xương dài. Nhờ những ưu điểm của phương pháp kết xương căng dãn mà nó đã được áp dụng rộng rãi trên thế giới và đã đem lại kết quả rất khả quan. Tuy nhiên, kéo dài chi và kết xương hai ổ theo phương pháp kết xương căng dãn đòi hỏi thời gian mang khung cố định ngoài dài, gây không ít khó chịu và phiền toái cho người bệnh(16).Trong những năm gần đây, các nghiên cứu ứng dụng TBG trong điều trị chậm liền xương, khớp giả, mất đoạn xương, hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi, trên động vật thực nghiệm và trên người bước đầu đã có kết quả rất khả quan(423). Khối tế bào gốc tuỷ xương có các thành phần có khả năng kích thích quá trình liền xương: TBG trung mô, TBG tạo máu, tế bào đơn nhân khác mà một số tế bào này là nguồn gốc của các cytokin kích thích quá trình tạo mạch máu và tạo xương(42). TBG trung mô thường được nén vào các vật mang như hydroxyapatid và tricancium phosphate hoặc xứ xốp… để điều trị các khuyết xương lớn trên động vật(427). Trên người, TBG trung mô sau khi nuôi cấy được Quarto R nén vào xứ xốp để điều trị thành công 3 BN khuyết xương lớn từ 4-7cm. Mastumoto T bằng nghiên cứu thực nghiệm cho rằng TBG tạo máu tủy xương CD34+ có vai trò tăng cường quá trình liền xương bằng thông qua vai trò hình thành vi mạch máu mới của ổ gãy và quá trình tạo xương tại ổ gãy. Năm 2003, Olmsted chứng minh các TBG CD34+ trong tuỷ xương của người có thể biệt hoá thành nguyên bào xương. Như vậy cả TBG tạo máu và TBG trung mô đều tham gia thúc đẩy quá trình liền xương của ổ căng dãn trong kéo dài chi và kết xương hai ổ.
 
Trên cơ sở những thành công trong nghiên cứu về tế bào gốc tại bệnh viện 108, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích: “Đánh giá hiệu quả liền xương của ghép tế bào gốc lấy từ máu tủy xương tự thân vào ổ kết xương căng dãn trong kéo dài chi và kết xương hai ổ”.
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment