Nhiễm sắc thể giới ở bệnh nhân khó xác định giới tại viện huyết học truyền máu từ 1996 – 2005

Nhiễm sắc thể giới ở bệnh nhân khó xác định giới tại viện huyết học truyền máu từ 1996 – 2005

Bình thường giới được xác định dựa vào bộ phận sinh dục ngoài, tuy nhiên nhiều trường hợp bộ phận sinh dục ngoài không rõ là nam hay nữ. Lúc đó cần xét nghiệm xác định giới. Mục tiêu: Tìm mối liên quan giữa biểu hiện lâm sàng của bộ phận sinh dục ngoài, lúc mới sinh và lúc đến khám bệnh với nhiễm sắc thể giới. Đối tượng: 119 bệnh nhân được các bệnh viện ở Hà Nội chẩn đoán “không rõ giới tính”. Phương pháp: Nuôi cấy máu ngoại vi, phân tích nhiễm sắc thể giới, so sánh kết quả với nhận định giới lúc mới sinh, chẩn đoán giới lúc khám bệnh. Kết quả: 87/ 119 trường hợp (73,11%) có nhiễm sắc thể giới nam. Tỷ lệ phù hợp giữa nhận định giới theo lâm sàng lúc mới sinh với kết quả xét nghiệm nhiễm sắc thể giới là 76,90% cho những trẻ được chẩn đoán là trai và chỉ là 33,33% cho các trẻ được coi là gái. Tỷ lệ phù hợp cao hơn khi trẻ đến khám bệnh (trung bình 6,4 tuổi). Gặp bốn trường hợp kiểu hình nữ có nhiễm sắc thể giới là XY. Kết  luận: Với những trường hợp  bệnh nhân có bộ  phận sinh dục ngoài khó phân biệt  giới: 73,11% có nhiễm sắc thể giới nam. Xác định giới lúc mới sinh rất khó chính xác nhất là những trường hợp được coi là trẻ gái (tỷ xác định giới chính xác ở trẻ được coi là gái lúc sinh chỉ 33,33%). Phát hiện bốn trường hợp “tinh hoàn nữ hóa”.

Bình thường giới của một cá thể được xác định ngay sau khi sinh. Căn cứ để xác định giới là bộ phận sinh dục ngoài. Tuy nhiên có nhiều trường hợp bộ phận sinh dục ngoài dị dạng, biểu hiện không rõ là nam hay nữ, việc xác định giới trở nên khó khăn.
Trong quá trình phát triển phôi và thai, tuyến sinh dục và bộ phận sinh dục ngoài được hình thành dưới tác dụng của các hormon hướng sinh dục. Các hormon  hướng sinh dục nam hay nữ được hình thành nhờ các gen trên nhiễm sắc thể (NST) Y và NST X của tế bào phôi thai [1]. Có thể do bất thường của các gen hay bất thường của cơ quan đích mà cho đến lúc trẻ ra đời bộ phận sinh dục vẫn chưa biệt hoá rõ là trai hay gái.
Có những trường hợp khác, khi ra đời trẻ được xác định giới nhưng bộ phận sinh dục ngoài dần phát triển theo hướng khác với giới đã xác định lúc sinh.
Đối với các trường hợp trên việc xác định giới tính  sớm  là  hết  sức  cần  thiết  để  quyết  định phương án can thiệp y học, điều chỉnh bộ phận
sinh dục ngoài. Việc điều chỉnh phải chính xác, được thực hiện sớm để cho trẻ có cuộc sống xã hội và tâm lý ổn định.
Hiện nay với những trường hợp không rõ giới tính, căn cứ để xác định giới là NST giới. Tuy nhiên không phải mọi nơi, mọi lúc đều thực hiện phân tích được NST giới.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu so sánh biểu hiện của bộ phận sinh dục ngoài với NST giới với mục tiêu:
Tìm hiểu mối liên quan giữa biểu hiện lâm sàng của bộ phận sinh dục ngoài lúc sinh và khi bệnh nhân đến khám bệnh với NST giới ở những bệnh nhân khó xác định giới tính.
I. ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG    PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu:

119 bệnh nhân từ 2 tháng tuổi đến 35 tuổi (trung bình: 6,4 tuổi) được chẩn đoán “không rõ giới tính”, “dị dạng sinh dục“… do các bệnh viện Nhi, bệnh viện Phụ sản và khoa Nội tiết bệnh viện Bạch Mai gửi tới từ 1996 – 2005 (10 năm).

2. Phương pháp nghiên cứu
Thu thập tư liệu và khám lâm sàng để xác định:
Giới khai sinh: Giới khai sinh là giới do bác sỹ  sản khoa xác định cho trẻ  lúc sinh,  gồm  giới nam, giới nữ hoặc mơ hồ giới tính (không rõ giới, chưa xác định giới)
Biểu hiện lâm sàng lúc đến bệnh viện: Khám bộ phận sinh dục ngoài căn cứ vào sự có mặt của dương vật, tinh hoàn, vị trí lỗ niệu đạo, sự có mặt của âm đạo, môi lớn và tư liệu  chẩn  đoán lâm sàng của bác sỹ khám bệnh để chia ra:
+ Nam (trẻ trai): Biểu hiện lâm sàng kiểu nam, được bác sỹ lâm sàng chẩn đoán sơ bộ: Hypop- adias, ẩn tinh hoàn, nam dị dạng sinh dục.
+ Nữ (trẻ  gái):  Biểu  hiện  lâm sàng là kiểu
nữ, được bác sỹ lâm sàng chẩn đoán sơ bộ: tăng sản thượng thận bẩm sinh, “âm vật phì đại.”, vô sinh I, vô kinh..
+ Mơ hồ giới tính: Bộ phân sinh dục ngoài không thiên hẳn về kiểu nam hay nữ, được bác sĩ lâm sàng chẩn đoán là: “Chưa rõ giới”, “Không xác định giới”.
Phân tích NST giới: Nuôi cấy máu ngoại  vi phân tích NST ở tiêu bản nhuộm băng R và băng C theo kỹ thuật của Lejeune và Verma [2, 5].
Lập công thức NST theo danh pháp Quốc tế về NST người 1995 [3, 4].
So sánh giữa kết quả phân tích NST, và biểu hiện lâm sàng lúc sinh (giới khai sinh), và lúc đến khám bệnh.
NST giới nam: XY, NST giới nữ: XX.

 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment