Nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục ở một số nhóm đối tượng dân cư tại tỉnh Quảng Ninh

Nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục ở một số nhóm đối tượng dân cư tại tỉnh Quảng Ninh

Nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ hiện mắc một số nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục ở một số nhóm đối tượng dân cư tại tỉnh Quảng Ninh năm 2003. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 1400 đối tượng: tỷ lệ nhiễm HlVởngười nghiện chích ma túy 56%, nam giới khám STI 5,5%, gái mại dâm 4,0%. Tỷ lệ nhiễm c. trachomatis ở tân binh 4,75%, phụ nữ mang thai 5%, nam giới khám STI 0,5% và gái mại dâm 3%. Giang mai: 0,25% ở tân binh và phụ nữ mang thai, 0,5% ở nam giới khám STI và 1,0% ở người nghiện chích ma túy. Tỷ lệ nhiễm lậu ở tân binh là 2,0%, phụ nữ mang thai là 1,5%, gái mại dâm là 0,5%. Tỷ lệ nhiễm T.
vaginalis: nam giới khám STI là 2,0% và gái mại dâm là 2,5%. Tỷ lệ nhiễm nấm candida ở gái mại dâm là 1,5%. Kết luận: tỷ lệ nhiễm HIV rất cao ở người nghiện chích ma túy, gái mại dâm và nam bệnh nhân khám STI. Tỷ lệ nhiễm Chlamydia cao ở tân binh và phụ nữ mang thai cho thấy cần phải có các hoạt động phòng, chống HIV tập trung vào lứa tuổi thanh niên.
Bệnh hoa liễu đã được biết đến từ rất lâu và người ta cũng biết rằng đây là bệnh lây qua quan hệ tình dục không an toàn. Vì vậy, nó còn được gọi là “Maladies vénériénnes”, tên lấy từ nhân vật trong thần thoại Hy Lạp Nữ thần Sắc đẹp và Ái tình Venus. Ngày nay, người ta gọi là nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (NTLTQĐTD hay STI). Bệnh ảnh hưởng trầm trọng đến sức khoẻ của con người và nòi giống [4]. Bệnh lây truyền qua đường tình dục làm tăng khả năng lây nhiễm HIV. Điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục ở những người nhiễm HIV thường khó khăn hơn đối với những người không nhiễm [1].
Theo ước tính của WHO, hàng năm có ít nhất 1/10 người đang ở tuổi hoạt động tình dục bị STI. Ở các nước đang phát triển, các STI là một trong năm bệnh thường gặp nhất [8]. Ở Việt Nam, theo ước tính của các chuyên gia thì hàng năm có khoảng gần 1 triệu trường hợp mới mắc bệnh này. Trong đó, Quảng Ninh là một trong các tỉnh có tỷ lệ nhiễm HIV trên 100.000 dân cao nhất ở Việt Nam. Để góp phần nghiên cứu về tình hình bệnh LTQĐTD ở Quảng Ninh, cũng như tình hình bệnh này tại Việt Nam, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu xác định tỷ lệ hiện mắc một số nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục ở một số nhóm đối tượng dân cư tại tỉnh Quảng Ninh năm 2003.
II.    ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1.    Đối tượng nghiên cứu:
Một số nhóm đối tượng dân cư tại tỉnh Quảng Ninh trong năm 2003 bao gồm: phụ nữ mang thai (PNMT), thanh niên khám tuyển nghĩa vụ quân sự, người tiêm chích ma túy (TCMT), phụ nữ mại dâm (PNMD) và nam giới đến khám bệnh lâytruyền qua đường tình dục (LTQĐTD).
2.    Phương pháp nghiên cứu
*    Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang nhằm xác định tỷ lệ hiện mắc một số nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục ở một số nhóm đối tượng dân cư tại Quảng Ninh năm 2003.
*    Cờmẫu nghiên cứu và chọn mẫu
–    Cỡ mẫu nghiên cứu sẽ được tính theo
công thức sau:    ^    ^
Trong đó: n: cỡ mẫu nghiên cứu
Z(1-a/2): Hệ số tin cậy ở mức sác xuất 95% (=1,96)
p: tỷ lệ hiện nhiễm chung (ước lượng = 7%) d: độ chính xác mong muốn (= 2%).
DE: hiệu số thiết kế nghiên cứu (= 2)
Cỡ mẫu nghiên cứu tính được là n = 1252. Lấy thêm 10% để đề phòng một số đối tượng nghiên cứu không đến tham gia. Chọn cỡ mẫu trong nghiên cứu này là 1400 người.
–    Chọn mẫu: mẫu nghiên cứu được phân bổ như sau: chọn 400 phụ nữ mang thai, 400 thanh niên khám tuyển nghĩa vụ quân sự, 200 người tiêm chích ma túy, 200 phụ nữ mại dâm và 200 nam giới đến khám bệnh LTQĐTD.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment