NHU CẦU ĐIỀU TRỊ PHCN CỦA NGƯỜI BỆNH TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO TẠI THÀNH PHỐ THÁI BÌNH NĂM 2021
NHU CẦU ĐIỀU TRỊ PHCN CỦA NGƯỜI BỆNH TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO TẠI THÀNH PHỐ THÁI BÌNH NĂM 2021
Ngô Văn Mạnh1, Bùi Thị Huyền Diệu1
1 Trường Đại học Y Dược Thái Bình
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Nghiên cứu mô tả cắt ngang với mục tiêu xác định nhu cầu điều trị PHCN của người bệnh tai biến mạch máu não tại 04 xã/phường thuộc thành phố Thái Bình từ tháng 1-10/2021. Kết quả nghiên cứu cho thấy 92,8% người bệnh có thời gian mắc bệnh trên 6 tháng, 17,1% người bệnh TBMN được can thiệp điều trị bằng các phương pháp phục hồi chức năng sớm (Dưới 2 tuần sau khi bị bệnh), 47,9% người bệnh TBMN có khó khăn về ăn uống; 73,6% người bệnh có khó khăn về mặc quần áo; 45% người bệnh có nói ngọng, nói lắp, nói khó; 55,7% người bệnh TBMN cần hỗ trợ bằng gậy hoặc nạng; nhu cầu phục hồi chức năng vận động là cao nhất chiếm 97,9%. Bổ xung nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị cho y tế cơ sở; Có nguồn ngân sách thường xuyên cho các chương trình trợ giúp cho người khuyết tật nói chung tại cộng đồng và tập huấn, đào tạo nhân lực cho trạm y tế xã/phường đáp ứng nhu cầu của người bệnh trong lĩnh vực phục hồi chức năng
Tai biến mạch máu não là một vấn đềlớn của Y học các nước trong nhiều thập kỷqua. Bệnh do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thểgây tửvong nhanh chóng hoặc đểlại nhiều di chứng nặng nề, đặc biệt là các di chứng vềvận động. Đó là gánh nặng không chỉđối với người bệnh, gia đình mà còn ảnh hưởng đến cảcộng đồng và quốc gia của họ. Theo công bốcủa tổchức Y tếthếgiới (WHO) tai biến mạch máu não là nguyên nhân gây tửvong hàng thứba sau ung thư và tim mạch. Những người thoát khỏi tửvong thường đểlại nhiều di chứng nặng nềcảvềthểchất lẫn tinh thần, giảm khảnăng lao động và công tác, suy giảm chất lượng cuộc sống, là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Theo Russel, 50% người bệnh mắc TBMN đểlại di chứng (1)Trong hai thập kỷ qua, có rất nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật tiến bộ trong điều trị TBMN ở giai đoạn cấp; nhờ có những kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán, cấp cứu và điều trị kịp thời, chính xác thì tỷ lệ tử vong đã giảm đáng kể, nhưng điều đó có nghĩa là tỷ lệ người bị di chứng và tàn tật do TBMN đang ngày càng gia tăng. Các di chứng sau TBMN rất nặng nề về mặt thể chất (khả năng đi lại, khả năng thăng bằng, sự phối hợp thực hiện động tác, các kỹ năng vận động tinh tế), về hành vi (dễ bị kích động), về nhận thức (rối loạn khả năng học tập và ghi nhớ), các thay đổi về mặt cảm xúc (trầm cảm)(2). Do đó việc PHCN sớm cho người bệnh TBMN là vấn đề cấp bách và cần được quan tâm đúng mức
Chi tiết bài viết
Từ khóa
tai biến mạch máu não, nhu cầu điều trị, Thái Bình
Tài liệu tham khảo
1. Lê Đức Hinh. Tai biến mạch não hướng dẫn chẩn đoán và xử trí. Nhà xuất bản Y học; 2008.
2. Bộ Y tế. Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị phục hồi chức năng cho bệnh nhân đột quỵ (Hướng dẫn về Hoạt động trị liệu). 2015.
3. Bệnh viện Phục hồi chức năng Thái Bình. Báo cáo tổng kết công tác khám chữa bệnh năm 2020.
4. Vũ Thị Tâm, Lê Thị Tuyết Trinh, Vũ Thị Hồng Anh và cộng sự (2021), “Khảo sát thực trạng bệnh nhân liệt nửa người do đột quỵ não tại Bệnh viện Y học cổ truyền Cao Bằng”, Tạp chí Y học Việt Nam, 482, 17-22
5. Nguyễn Thanh Duy (2018), Đánh giá mức độ độc lập và các yếu tố liên quan ở người tai biến mạch não tại huyện Tân Biên- Tây Ninh, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Phạm Văn Phú, Ngô Đăng Thục, Trần Trọng Hải (2003), “Đánh giá mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày của người sau tai biến mạch não tại cộng đồng”, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, 7, 68-72.
7. Nguyễn Thị Thanh Thư, Nguyễn Thị Kim Liên (2021), “Đánh giá kết quả hoạt động trị liệu trong phục hồi chức năng sinh hoạt hàng ngày ở bệnh nhân nhồi máu não trên lều”, Tạp chí Y học Việt Nam, 506, tr 245-249.
8. Trần Văn Chương, Nguyễn Xuân Nghiên (1999), “Kết quả phục hồ ichức năng tại nhà của người bệnh liệt nửa người trong chương trình phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng”, Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học số 6, Nhà xuất bản Y học, 177-182
Nguồn: https://luanvanyhoc.com