NHỮNG BẤT THƯỜNG NHIỄM SẮC THỂ VÀ GEN TRONG BỆNH BẠCH CẦU CẤP DÒNG TỦY

NHỮNG BẤT THƯỜNG NHIỄM SẮC THỂ VÀ GEN TRONG BỆNH BẠCH CẦU CẤP DÒNG TỦY

 NHỮNG BẤT THƯỜNG NHIỄM SẮC THỂ VÀ GEN TRONG BỆNH BẠCH CẦU CẤP DÒNG TỦY

Phan Nguyễn Thanh Vân*, Phan Thị Xinh**, Trần Thị Trúc Thanh*, Nguyễn Tấn Bỉnh*** 

ĐẶT VẤN ĐỀ
Vào thập niên 1970, gần 50% bạch cầu cấp dòng tủy (BCCDT) được tìm thấy có bất thường nhiễm sắc thể (NST) bằng phân tích NST đồ kinh điển. Ngày nay, với sự phối hợp của các kỹ thuật di truyền phân tử như kỹ thuật lai tại chỗ phát huỳnh quang (FISH: Fluorescence in situ Hybridization), lai so sánh bộ gen (CGH: Comparative Genomic Hybridization), khuêch đại chuỗi (PCR: Polymerase Chain Reaction), khoảng 55 đên 78% BCCDT người lớn có bất thường NST, trong đó 55% là 1 bất thường; 15¬20% là tam bội (trisomy) hoặc đơn bội (monosomy) và phần còn lại có từ 2 bất thường trở lên.
Những bất thường NST thường gặp trong BCCDT bao gồm t(15;17), t(8;21), inv(16)/t(16;16), t(9;11), +8, +21, del(5q), -7, bất thường 11q23 và bất thường 12p11-13. Sự phối hợp giữa dữ liệu lâm sàng và di truyền phân tử đã đưa đến việc nhận ra những phân nhóm BCCDT và giúp phân nhóm tiên lượng.
Những bất thường di truyền phân tử chia làm hai nhóm I và II. Nhóm I bao gồm các đột biên hoạt hóa những con đường truyền tín hiệu, làm tăng cường sự tăng sinh và khả năng sống sót của tê’ bào bạch cầu đầu dòng. Những đột biên dẫn đên hoạt hóa thụ thể tyrosine kinase FLT3 hoặc hoạt hóa đường truyền tín hiệu RAS được xêp vào đột biên nhóm I. Nhóm II gồm những đột biên ảnh hưởng đên yêu tố phiên mã hoặc thành phần của phức hợp đồng hoạt hóa phiên mã, làm suy giảm khả năng biệt hóa tê bào. Các tổ hợp gen được tạo thành từ những 
chuyển đoạn t(8;21), inv(16)/t(16;16), t(15;17), hoặc các đột biến gen CEBPA, MLL, và NPM1 được xếp vào nhóm II(13).
CÁC BẤT THƯỜNG NST VÀ GEN THƯỜNG GẶP
Chuyển vị t(8;21)(q22;q22)
Chuyển vị t(8;21)(q22;q22) được mô tả lần đầu tiên vào năm 1973. Đây là chuyển vị NST rất thường gặp trong bệnh bạch cầu cấp thể M2 (theo FAB: French-America-Bristish) tạo ra tổ hợp gen AML1/ETO<14’33). Gen AML1 (acute myeloid leukemia 1) còn được biết đên với tên PEBP2a (polyoma enhancer binding protein 2 subunit a), hoặc CBFA2 (core binding factor subunit A2) gồm có 9 exon và dài 150 kb. Gen ETO (Eight Twenty One) còn có tên là gen CDR (cyclin D-related) hoặc MTG8 (myeloid translocation gene on chromosome 8) gồm có 13 exon trải dài 87 kb. Kết quả của chuyển vị này là chuyển oncogene AML1 trên NST 21 đêh gắn với gen ETO trên NST 8. Gen AML1 bình thường mã hóa protein có vai trò hoạt hóa phiên mã làm tê” bào phân chia và biệt hóa. Khi chuyển vị NST xảy ra, protein hình thành từ tổ hợp gen AML1/ETO không những mất chức năng của protein AML1 mà còn ức chê” protein AML1 bình thường, dẫn đên tê” bào bị ung thư.
Chuyển vị t(8;21) có tiên lượng tốt ở người lớn bệnh BCCDT, tỷ lệ đạt lui bệnh cao với thời gian lui bệnh kéo dài nêu trong điều trị củng cố” sử dụng liều cao Cytarabine. Khác với người lớn, trẻ em có chuyển đoạn t(8;21) đáp ứng trung bình với hóa trị liệu và có thời gian sống ngắn hơn(57). Gần đây, việc phát hiện đột 

 
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment