NHỮNG RÀO CẢN TRONG ÁP DỤNG HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG KHÁNG SINH TRÊN BỆNH NHÂN NGOẠI KHOA TẠI BV. CHỢ RẪY
NHỮNG RÀO CẢN TRONG ÁP DỤNG HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG KHÁNG SINH TRÊN BỆNH NHÂN NGOẠI KHOA TẠI BV. CHỢ RẪY
Lê Thị Anh Thư*, Đặng Thị Vân Trang*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tìm kiêu những rào cản trong việc sử dụng kháng sinh hợp lý là cần thiết để ứng dụng vào công tác quản lý việc sử dụng kháng sinh.
Mục tiêu: Đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành sử dụng kháng sinh và những yêu tố gây cản trở việc thực hành hướng dẫn sử dụng kháng sinh của các BS ngoại khoa.
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Cắt ngang mô tả được tiến hành vào 1/2010 ở bệnh viện Chợ Rẫy. Thông tin thu thập bằng phiêu thăm dò gởi tới từng bác sĩ ngoại.
Kết quả: Có 183 bác sĩ ngoại khoa đã trả lời thăm dò, giới nam chiếm 82,5%, nữ chiếm 17,5%, số năm kinh nghiệm trung bình là 9,3 năm. 83,6% bác sĩ ngoại trả lời đúng các yếu tố quyết định loại kháng sinh được sử dụng, nguyên tắc sử dụng kháng sinh trên bệnh nhân phẫu thuật. 80,3% định nghĩa đúng kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật, nhưng chỉ 58,3% bác sĩ trả lời đúng chỉ định kháng sinh dự phòng và 45,9% chọn đúng kháng sinh trong trường hợp vi khuẩn đa kháng. 14,8% bác sĩ cho rằng trong tất cả các trường hợp, việc chỉ định kháng sinh nhiêu ngày sau phẫu thuật là cần thiết. 14,2% cho rằng kháng sinh kéo dài sau mổ sẽ rút ngắn thời gian nằm viện cho bệnh nhân sau phẫu thuật, 12,6% cho rằng phải sử dụng phối hợp ít nhất 2 loại kháng sinh cho mọi loại phẫu thuật. 9,8% bác sĩ cho rằng dùng kháng sinh dự phòng cho phẫu thuật sạch và sạch nhiễm là không thê’ trong điêu kiện hiện nay. Liên quan đến thực hành sử dụng kháng sinh, 13,2% bác sĩ hiếm khi hoặc không bao giờ sử dụng kháng sinh dự phòng cho các phẫu thuật sạch; 80% bác sĩ ngoại cho bệnh nhân sử dụng KS kéo dài 2-7 ngày sau phẫu thuật cho các phẫu thuật sạch; 82% bác sĩ cho chỉ định cấy vi sinh khi nghi ngờ nhiễm khuẩn vết mổ và dùng kháng sinh theo kết quả kháng sinh đô. Qua phân tích đa biến, số năm kinh nghiệm không có ảnh hưởng đến kiến thức, thái độ, hành vi; và có mối liên quan có ý nghĩa giữa kiến thức, thái độ và hành vi của các bác sĩ. Nghiên cứu còn cho thây các yếu tố cản trở việc sử dụng kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật và kéo dài kháng sinh sau phẫu thuật là môi trường phòng mổ kém (37,2%), bệnh nhân quá tải (31,7%), chăm sóc sau mổ kém (29,0%) và thói quen (12%).
Kết luận: Đê’ thực hiện chương trình kiểm soát việc sử dụng kháng sinh trong ngoại khoa được hiệu quả hơn, cần chú ý đến việc đào tạo, cải thiện môi trường phòng mổ, cải thiện tình trạng chăm sóc bệnh nhân .
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các nghiên cứu cho thấy tỉ lệ sử dụng kháng sinh (KS) khộng phù hợp từ 15-25% ở các nước đã phát triển và 75-85% ở các nước đang phát triển(1614). Sử dụng KS không hợp lý là một trong những nguyên nhân quan trọng gây đề kháng KS(4). Khởi đầu điều trị KS không thích hợp được ghi nhận trong khoảng 1/3 bệnh nhân shock nhiêm khuẩn do Gram âm ở một bệnh viện đại học(13). Việc điều trị không thích hợp này dẫn đến tăng tỉ lệ tử vong, kéo dài thời gian nằm viện ít nhất 2 ngày.
Quản lý sử dụng kháng sinh là yếu tố quan trọng để phòng ngừa sự đề kháng KS. Quản lý tốt sử dụng KS bao gồm chọn loại KS phù hợp, chọn liều dùng và thời gian dùng KS tối ưu để điều trị nhiêm trùng, giảm được độc tính và đề kháng KS(7). Những chương trình quản lý sử dụng KS bao gồm huấn luyện về việc kê toa, hỏi ý kiến chuyên khoa trước khi kê toa, tổ chức lại việc kê toa, quay vòng KS, giám sát và phản hồi cho thấy cải thiện được sự sử dụng KS hợp lý,
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất