Những tác động của triệt bỏ đường dẫn truyền chậm lên dẫn truyền nhĩ thất trong cơn tim nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất
Tim nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất khá thường gặp trên lâm sàng [10]. Việc sử dụng sóng có tần số radio (radiofrequency) để điều trị cho cơn tim nhịp nhanh này ngày nay đã trở lên phổ biến. Phương phá triệt pháp đường dẫn truyền chậm (slow – pathway ablation) thường được sử dụng như một phương pháp an toàn và hiệu quả, được áp dụng ở nhiều trung tâm điện sinh lý trên khắp thế giới. Tuy nhiên, việc triệt phá đường dẫn truyền chậm có làm ảnh hưởng lên dẫn truyền nhĩ thất hay không, vẫn chưa có nhiều nghiên cứu. Hiện nay, ở Việt Nam chúng tôi vẫn chưa thấy nghiên cứu nào về vấn đề này. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu:
Đánh giá “Tác động của triệt bỏ đường dẫn truyền chậm lên dẫn truyền nhĩ thất trong cơn tim nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất”.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Bệnh nhân: 27 bệnh nhân nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất điển hình tại Viện tim mạch quốc gia Việt Nam từ tháng 7/2003 đến tháng 7/2006. Tất cả 27 bệnh nhân đều được được tiến hành theo nghi thức thăm dò điện sinh lý tại Viện tim mạch quốc gia Việt Nam. Tất cả bệnh nhân đều được khám lâm sàng, làm điện tâm đồ 12 chuyển đạo, siêu âm tim. Bệnh nhân trước khi làm đều được ngừng thuốc chống loạn nhịp ít nhất 5 lần thời gian bán huỷ.
Tiêu chuẩn chẩn đoán: chẩn đoán cơn nhịp nhanh do vòng vào lại nút nhĩ thất điển hình theo tiêu chuẩn của Josephson [6]: (1) Cơn nhịp nhanh gây ra và chấm dứt bằng nhát bóp nhĩ, nhát bóp thất sớm; (2) Có đường cong kép (bước nhảy AH) khi tiến hành tạo nhịp nhĩ; (3) Gây ra nhịp nhanh trên thất phụ thuộc khoảng AH; (4) Hoạt động nhĩ sớm nhất ở điện cực điện thế His (thời gian VA < 80 ms); (5) Sóng P ngược chiều lẫn trong QRS hoặc sau QRS; (6) Các biện pháp xoang cảnh có thể làm chậm và rồi kết thúc cơn nhịp nhanh.
Phương tiện: máy chụp mạch 2 bình diện của hãng Shimazu. Hệ thống theo dõi điện sinh lý RMC series 3000 version 4.0 của hãng Nihon Kohden. Máy kích thích Micropace III của hãng Bard và máy đốt HAT 200 S của hãng Dr Osypka.
Kỹ thuật đốt: kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu là kỹ thuật đốt đường chậm. Kỹ thuật này được dựa theo kỹ thuật của Jackman5. Catheter đốt được đặt vào trong thất phải rồi xoay ra phía dưới cho nó nằm phía trước của xoang vành, tiếp đó rút ra từ từ qua van ba lá cho đến khi điện thế đầu xa ghi được điện thế nhĩ nhỏ và điện thế thất lớn. Các vùng lập bản đồ điện học sẽ ở vùng sau dưới của tam giác Koch. Vùng đốt (target site) sẽ được dựa trên hình ảnh XQ, hình ảnh điện đồ của điện cực đốt.
Đốt sóng radio: chúng tôi đặt theo chế độ cường độ với P = 30 W . Nếu đầu điện cực đốt không bị xê dịch, nhịp bộ nối được thấy trong quá trình phóng tia, thời gian đốt sẽ kéo dài trong 30 giây.
Đốt được cho là thành công: khi không thể gây nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất bằng các kích thích thông thường và cả khi truyền isoproterenol.
Thông số xác định: chúng tôi lần lượt đo các thông số điện sinh lý cơ bản, dẫn truyền qua nút nhĩ thất trước và sau đốt của nhóm bệnh nhân nghiên cứu.
Xử lý số liệu: các số liệu được nhập và xử lý theo các thuật toán thống kê trên máy tính với sự trợ giúp của phần mền SPSS for Windows version 10.0.1 (SPSS.Inc South Wacker Drive, Chicago, IL).
Mục tiêu: nghiên cứu những tác động của triệt bỏ đường dẫn truyền chậm lên dẫn truyền nhĩ thất trong cơn tim nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất. Phương pháp và kết quả: từ tháng 7/2003 đến tháng 7/2006, 27 bệnh nhân nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất điển hình đã được triệt bỏ đường chậm bằng sóng radio. Bệnh nhân được so sánh một số thông số dẫn truyền nhĩ thất trước và sau đốt bao gồm: khoảng cách một chu kỳ xoang (trước đốt 745,81 ± 136,63 ms so với sau đốt 634,61 ± 148,82 ms, p < 0,05); Khoảng PA (trước đốt 32,03 ± 8,71 ms so với sau đốt 34,15 ± 9,36 ms,p = NS); Khoảng QRS (trước đốt 93,52 ± 12,31 ms so với sau đốt 89,93 ± 15,31 ms,p = NS); Khoảng AH (trước đốt 67,72 ± 18,66 ms so với sau đốt 69,31 ± 25,92 ms,p = NS); Điểm Wenkebach chiều xuôi (trước đốt 316,32 ± 52,13 ms so với sau đốt 338,16 ± 65,52 ms,p = NS); Điểm gây blốc nhĩ thất 2:1 (trước đốt 245,95 ± 78,46 ms so với sau đốt 251,62 ± 65,31 ms,p = NS); Thời gian trơ đường nhanh (trước đốt 358,31 ± 68,67 ms so với sau đốt 362,48 ± 92,11 ms,p = NS). Kết luận: việc triệt bỏ đường dẫn truyền chậm trong cơn tim nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất không làm thay đổi dẫn truyền nhĩ thất.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích