NỘI SOI MỀM TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ CÁC BỆNH LÝ ĐƯỜNG TIẾT NIỆU TRÊN TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN TRONG NAM 2010

NỘI SOI MỀM TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ CÁC BỆNH LÝ ĐƯỜNG TIẾT NIỆU TRÊN TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN TRONG NAM 2010

 TÓM TẮT

Mục tiêu: ngày nay, nội soi niệu quản thận ngược dòng với máy soi mềm càng mở rộng các chỉ định hơn nữa trong chẩn đoán và điêu trị xâm hại tối thiểu cho nhiêu bệnh lý khác nhau trên đường tiết niệu trên.
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: trong một năm 2010, chúng tôi thực hiện được 23 trường hợp nội soi mêm NQ- thận, tại khoa Nội soi Niệu bệnh viện Bình Dân. Trong đó, 2 bệnh nhân bị tiêu máu đại thể chưa rõ nguyên nhân từ đường tiết niệu trên. 21 bệnh nhân còn lại có sỏi thận và sỏi niệu quản kết hợp. Tất cả các TH sỏi niệu đêu không phải là ĩân đâu điêu trị ngoại khoa sỏi niệu cho BN. Tất cả các TH nội soi mêm, chúng tôi đêu sử dụng ống thông 9 Fr trong NQ làm giá đỡ máy soi mêm.
Kết quả: 23 BN, gồm 11 nam, 12 nữ. Tuổi trung bình là: 48,33 ± 11,45 (thấp nhất 30, cao nhất 71 tuổi). Thời gian thực hiện nội soi là: 73,33 ± 21,56 phút. Kích thước sỏi trung bình là 11,05 ± 2,90 mm (từ 6-14mm). Trong 21 TH sỏi niệu, chúng tôi có 9 TH sử dụng laser Holmium tán vỡ sỏi (42,86%) và 11 TH (52,38%) dùng rọ bắt sỏi Dormia hình lê lôi các mảnh sỏi ra ngoài. Thời điểm tái khám BN (thường là từ 4 tuân sau nội soi), chúng tôi ghi nhận tỉ lệ sạch sỏi sau 1 đợt NS mêm là 64,71%, còn tỉ lệ sót sỏi (> 4mm) sau 1 đợt NS mêm là 35,29 %. Ngoài ra, với13 TH cósỏithậnđài dưới,tỉlệ điêutrị sỏithành công là 60%. Chúng tôi ghinhận
không có TH nào có biến chúng hậu phẫu nặng nê.
Kết luận: Nội soi mêm niệu quản thận ngược dòng là một phương pháp tiên tiến, giảm thiêu sang chấn trong chẩn đoán cũng như trong điêu trị các bệnh lý đường tiết niệu trên. Khi NS mêm NQ thận kết hợp với laser Holmium, trở thành một kỹ thuật tán sỏi hiệu quả cao và an toàn cho các sỏi NQ lưng cao, cũng như các sỏi trong thận.
MỞ ĐẦU
Từ 25 năm qua, nội soi niệu quản (NSNQ) kết hợp tán sỏi ngoài cơ thể (TSNCT) đã thực hiện hơn 90% các trường hợp chỉ định chẩn đoán và điều trị các bệnh lý sỏi đường tiết niệu, thay vì phẫu thuật mổ mở(34). Hiện nay, TSNCT, phẫu thuật lấy sỏi qua da (LSQD) và NSNQ là các phương pháp ít xâm hại, đã giải quyết hầu hết các TH bệnh đường tiết niệu trên. Tuy nhiên, vân còn những TH bệnh lý khác thất bại điều trị với 3 phương pháp trên, như là: sót sỏi sau mổ, tiểu máu đại thể kéo dài chưa rõ nguyên nhân, bướu niệu mạc tại chỗ hoặc bướu niệu mạc trên thận độc nhất, thận dị dạng…, vân cần nội soi NQ- thận ngược dòng vào bên trong thận, đồng thời kết hợp laser Holmium để điều trị các bệnh lý này. Tại Khối Niệu Bệnh viện Bình Dân (BVBD), chúng tôi bước đầu ứng dụng phương pháp này trong chẩn đoán và điều trị các trường hợp tiểu máu đại thể dai dẳng chưa tìm ra nguyên nhân và chủ yếu cho các trường hợp sỏi đường tiết niệu trên (còn sót sỏi, sỏi tái phát) ở những bệnh nhân có tiền sử can thiệp điều trị sỏi niệu.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Từ tháng 1 đến tháng 12 năm 2010, tại Khoa Nội soi Niệu, Bệnh viện Bình dân, chúng tôi đã thưc hiện được 23 trường hợp (TH) nội soi mềm NQ- thận, để chẩn đoán cho 2 TH tiểu máu từ đường tiết niệu trên chưa tìm được nguyên nhân sau khi đã thăm khám và làm đầy đủ các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh cần thiết, và điều trị cho 21 TH sỏi đường tiết niệu trên.
 
Tổ chức thực hiện nội soi điều trị tại phòng mổ của Khoa Nội soi niệu, trong đó các phương tiện nghiên cứu như sau:
Máy soi mềm, hãng Olympus, 7.5 Fr, gập 1 lần ở đầu tận, góc 170°
Máy C- arm, từ hệ thống TSNCT chuyển đến Máy soi cứng và hệ thống nguồn sáng của hãng Stortz.
Máy tán sỏi laser holmium, Dornier hoặc Sprinx.
Các dụng cụ nội soi khác, như: dây dẫn (guide- wide), rọ bắt sỏi hình lê, dây dẫn laser…
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment