Nồng độ adiponectin huyết thanh ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 phát hiện lần đầu

Nồng độ adiponectin huyết thanh ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 phát hiện lần đầu

Đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh rối loạn chuyển hóa Glucid mạn tính. Tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ ngày càng gia tăng, trong đó ĐTĐ typ 2 chiếm tỷ lệ 90%. Mặc dầu ĐTĐ typ 2 chiếm tỷ lệ khá cao, nhưng thường được phát hiện muộn.
Từ lâu người ta đã thừa nhận béo phì là một yếu tố nguy cơ chính của bệnh ĐTĐ typ 2, có mối liên quan hết sức chặt chẽ với kháng Insulin ngay từ giai đoạn tiền ĐTĐ. Adiponectin, một trong những protein do mô mỡ bài tiết được mô tả gần đây, có tác động trên chuyển hóa và kháng viêm quan trọng, có thể nói adiponectin có liên quan với các yếu tố thuận lợi cho sự phát triển của bệnh ĐTĐ, nó có vai trò như một yếu tố bảo vệ chống lại quá trình hình thành và phát triển bệnh ĐTĐ [9, 10].
Cho đến nay, adiponectin là mối quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên thế giới nhằm tìm ra những giải pháp mới hiệu quả trong việc chẩn đoán sớm, tiên lượng, theo dõi sự phát triển và điều trị bệnh ĐTĐ typ 2. Tại  Việt  Nam,  đến  nay  vẫn  chưa  có  một nghiên cứu nào về adiponectin và vai trò của nó trong  bệnh  ĐTĐ  typ  2.  Chúng  tôi  tiến  hành nghiên cứu này với mục tiêu:
1.    Tìm  hiểu,  nồng  độ  adiponectin  máu  ở người bình thường, ở nhóm ĐTĐ typ 2 phát hiện lần đầu.
2.    Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ adi- ponectin với một số yếu tố nguy cơ  phát triển bệnh ĐTĐ typ 2.
II.    ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
1.    Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu trên 55 bệnh nhân ĐTĐ typ 2 phát hiện lần đầu điều trị ngoại trú tại khoa Nội tiết – ĐTĐ bệnh viện Bạch Mai từ tháng 11/2009
đến tháng 10/2010 tuổi từ 39 – 70. Và 35 người khỏe mạnh đến khám sức khỏe, không có rối loạn chuyển hóa glucose.
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân nghiên cứu:
–    Chẩn đoán BN ĐTĐ typ 2 theo tiêu chuẩn WHO năm 1999 và IDF năm 2005.
–    Nhóm chứng gồm những người không có rối loạn chuyển hóa glucose tương ứng về tuổi, giới.
Tiêu chuẩn loại trừ không đưa vào nghiên cứu

–    BN đang có biến chứng cấp tính (hôn mê do ĐTĐ, NMCT, TBMN…).
–    ĐTĐ có suy gan, suy thận, tim, biến chứng võng mạc…
–    BN ĐTĐ typ 2 đã dùng thuốc điều trị.
2.    Phương pháp nghiên cứu
–    Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
–    Thăm khám tỉ mỉ, đặc biệt lưu ý các chỉ số BMI (đánh giá theo khuyến cáo của WHO tháng 2/2002 với người Châu Á khi BMI ≥ 23 thì gọi là thừa cân).
–    Đo vòng eo/ vòng hông.
–    Đo  huyết  áp,  chẩn  đoán  THA  theo  tiêu chuẩn JNC – VII; huyết áp tâm thu ≥ 140mmHg và hoặc HA tâm trương ≥ 90 mmHg.
–    Khám lâm sàng hệ thống mạch ngoại vi, và siêu âm tim.
–    Ngoài ra định lượng các chỉ số Adiponectin huyết thanh bằng phương pháp  miễn dịch gắn enzym (Enzyme Linked Immuno Sorbent Assay – ELISA) trên máy ELISA iMarkTM của hãng Biorad tại trung tâm nghiên  cứu Gen – Protein, Trường Đại học Y Hà Nội.
–    Glucose máu, insulin máu, cholesterol  Tp, triglycerid, HDL – C, LDL – C, AST, ALT, tại khoa Sinh hóa – Bệnh viện Bạch Mai.
–    Xác định tỷ lệ HbA1c bằng phương pháp sắc ký lỏng trao đổi hiệu năng cao (High Performance Liquid Chromatography – HPLC), tiến hành trên máy Bio – rad D10TM  tại khoa Sinh hóa – Bệnh viện Bạch Mai.
– Đánh giá chỉ số kháng insulin (HOMA IR).
Áp  dụng  công  thức  tính  chỉ  số  HOMA (Homeostatic model assessement method insulin
resistance – HOMA IR) do Matthews và cộng sự đề xuất lần đầu năm 1995.
Trong định nghĩa năm 1998 của WHO: “Được coi là kháng insulin khi chỉ số HOMA – IR lớn hơn tứ phân vị trên của nhóm chứng” [4].
Adiponectin là một adipokin được mô mỡ bài tiết và có liên quan đến một số bệnh [7, 8]. Việc xác định sớm nồng độ adiponectin trong huyết thanh có thể giúp phát hiện sớm những trường hợp có nguy cơ tiến triển thành ĐTĐ typ 2, đồng thời giúp theo dõi đáp ứng điều trị, tiên lượng bệnh ĐTĐ typ 2. Mục tiêu: (1) Xác định nồng độ adiponectin huyết thanh ở người bình thường, ở nhóm ĐTĐ typ 2 phát hiện lần đầu; (2) Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ adiponectin với một số yếu tố nguy cơ của bệnh ĐTĐ typ 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu trên 35 người khỏe mạnh đến khám sức khỏe định kỳ, không có rối loạn chuyển hóa glucose và 55 bệnh nhân ĐTĐ typ 2 phát hiện lần đầu điều trị ngoại trú tại khoa Nội tiết – ĐTĐ bệnh viện Bạch Mai. Adiponectin huyết thanh được xác định bằng phương pháp ELISA. Kết quả:
(1) Nồng độ adiponectin huyết ở nhóm người bình thường là 9,5 ± 2,2 µg/ml và ở nhóm ĐTĐ typ 2 phát hiện lần đầu là 6,3 ± 2,5 µg/ml. (2) Tương quan của adiponectin huyết thanh với nồng độ glucose huyết tương lúc đói có r = – 0,44; p < 0,001, với triglyceride huyết thanh có r = – 0,24; p < 0,001, với cholesterol huyết thanh có r = – 0,19; p < 0,001. Kết luận: (1) Nồng độ adiponectin huyết thanh trung bình nhóm ĐTĐ typ 2 phát hiện lần đầu là: thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng. (2) Có mối tương quan nghịch của adiponectin với nồng độ glucose huyết tương lúc đói, triglycerid và cholesterol huyết tương.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment