Nồng độ cystatin c máu và chức năng thận ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2

Nồng độ cystatin c máu và chức năng thận ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2

Nghiên cứu này nhằm đánh giá sự thay đổi nồng độ cystatin c huyết thanh trong phát hiện tổn thương thận ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2. 90 bệnh nhân đái tháo đường typ 2 được chia làm 3 nhóm: albumin niệu âm tính, abumin niệu vi lượng và albumin niệu lượng lớn. Kết quả nghiên cứu cho thấy: nồng độ cystatin c tăng có ý nghĩa từ nhóm abbumin niệu bỉnh thường (0,81 ± 0,40 mg/L) đến nhóm albumin niệu vi lượng (1,59 ± 0,66 mg/L) tiếp đến là albumin niệu lượng lớn (8,62 ± 5,58 mg/L) (với p <0,001). Nồng độ cystatin c không phụ thuộc vào giới, tuổi và BMI. Cystatin c nhạy hơn, thay đổi sớm hơn creatinin trong sàng lọc và theo dõi chức năng thận ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2. Nồng độ cystatin c tăng có ý nghĩa từnhóm bệnh thận mạn do đái tháo đường giai đoạn 1 đến giai đoạn 2, giai đoạn 3 (tất cả các p < 0,001); trong khi nồng độ creatinin chỉ khác biệt có ý nghĩa giữa nhóm albumin niệu vi lượng và albumin niệu lượng lớn, giữa bệnh thận mạn giai đoạn 2 và 3. Giá trị chẩn đoán chính xác bệnh thận mạn giai đoạn 1 và 2 của cystatin c tốt hơn của creatinin. Từ đó ta có kết luận: các kết quả này gợi ý cystatin c huyết thanh có thể là một chỉtố để phát hiện sớm suy giảm mức lọc cầu thận ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2.

Bệnh thận do đái tháo đường (ĐTĐ) có đặc trưng bởi albumin niệu vi lượng, tiếp theo là albumin niệu lượng lớn và suy giảm mức lọc cầu thận. Đây là một biến chứng được coi là nguy hiểm và tốn kém nhất ở các bệnh nhân
máu và độ thanh thải creatinin. Tuy nhiên, creatinin không phải là xét nghiệm đủ nhạy để phát hiện sớm suy giảm chức năng thận. Hơn nữa, có những bệnh nhân ĐTĐ có thể chưa xuất hiện albumin niệu vi lượng nhưng vẫn có thể suy giảm chức năng thận. Vì vậy, việc tìm ra một chỉ điểm sinh học nhạy và đặc hiệu để phát hiện sớm suy giảm chức năng thận ở bệnh nhân ĐTĐ là rất có ý nghĩa.
Gần đây một số công trình nghiên cứu chứng minh rằng trị số cystatin c có thể đánh giá mức lọc cầu thận chính xác hơn những thông số vẫn dùng trước đây và cystatin c có thể phát hiện sớm mức độ tổn thương của thận mà không bị ảnh hưởng của một số yếu tố nhiễu như: tuổi, giới, cân nặng, chiều cao, khối lượng cơ, chủng tộc [4, 8]. Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu xác nhận giá trị của cystatin c như là một chỉ tố sinh học mới. Ở Việt Nam, những nghiên cứu về vấn đề này còn rất mới và chưa nhiều, vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài: “Nồng độ cystatin c máu và chức năng thận ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 ” với hai mục tiêu:
1.    Đánh giá sự thay đổi nồng độ cystatin c ở các nhóm bệnh nhân ĐTĐ typ 2.
2.    Bước đầu đánh giá nồng độ cystatin c trong phát hiện tổn thương thận ở bệnh nhân ĐTĐtyp2.
II.    ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1.    Đối tượng
90 bệnh nhân ĐTĐ đến khám và điều trị tại bệnh viện 19-8, chia làm 3 nhóm: nhóm 1: 30 bệnh nhân albumin niệu âm tính (normoalbuminuria); nhóm 2: 30 bệnh nhân albumin niệu vi lượng (Microalbuminuria); nhóm 3: 30 bệnh nhân albumin niệu lượng lớn (Macroalbuminuria). Bệnh nhân đã được chẩn đoán ĐTĐ typ 2 theo tiêu chuẩn của WHO năm 2001, tự nguyện tham gia nghiên cứu.
2.    Phương pháp
Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến cứu. Đối tượng nghiên cứu được lấy máu vào buổi sáng, lúc đói để định lượng creatinin và cystatin c. Nước tiểu 24h được thu thập làm xét nghiệm microalbumin niệu. Cystatin c được định lượng trên máy Hitachi Cobas c501 theo phương pháp phân tích miễn dịch đo độ đục. Microalbumin niệu (MAU) được định lượng trên máy Hitachi 912. Các chỉ số hóa sinh khác được định lượng trên máy phân tích hóa sinh tự động AU680.
Xử lý số liệu: Các số liệu được nhập và xử lý bởi phần mềm thống kê y học SPSS 16.0. So sánh giá trị trung bình, các tỷ lệ %. Tính hệ số tương quan (r). Vẽ đồ thị ROC để đánh giá độ nhạy, độ đặc hiệu của xét nghiệm.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment