Đái tháo đường (ĐTĐ) được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa như là một tình trạng tăng đường huyết mạn tính, có thể dẫn tới hôn mê và tử vong nếu không được điều trị [1].
Ngày nay, bệnh ĐTĐ ngày càng trở nên phổ biến và đã trở thành gánh nặng về kinh tế cho nhiều quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam. Đó là một bệnh chuyển hóa nặng với rất nhiều biến chứng mạn tính cũng như cấp tính [2; 3]. Một trong các biến chứng của ĐTĐ là sự tổn thương xơ vữa các mạch máu. Sự tổn thương ở hệ thống vi mạch đặc trưng bởi dày các màng đáy mao mạch ở khắp cơ thể nhưng đặc biệt quan trọng ở đáy mắt và cầu thận, gây tổn thương đáy mắt và các bệnh lý thận do ĐTĐ [1; 3]. Trên thế giới, đã có nhiều công trình nghiên cứu về mối liên quan giữa nồng độ Homocystein và sự phá hủy thành mạch. Các công trình này cho thấy có sự liên quan chặt chẽ giữa nồng độ Homocystein trong máu và bệnh mạch vành ở bệnh nhân ĐTĐ [5; 6; 10]. Ở bệnh nhân ĐTĐ typ 2, nồng độ Homocystein trong máu còn là sự tiên lượng có ý nghĩa các khả năng mắc các bệnh tim mạch và tử vong [5]. Ở Việt Nam, chúng tôi chưa thấy có nghiên cứu nào về Homocystein máu ở bệnh nhân ĐTĐ. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
Xác định nồng độ homocystein máu ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 có so sánh với nhóm người bình thường.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Nhóm chứng
Gồm 46 người bình thường, không mắc bệnh ĐTĐ, có độ tuổi và giới tương đương nhóm BN ĐTĐ, tự nguyện tham gia vào nhóm nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ: có bất kỳ một bệnh mạn tính nào, có sự rối loạn chuyển hóa lipid; không hút thuốc, uống rượu.
Nhóm bệnh
Trong nghiên cứu này, chúng tôi lựa chọn 57 bệnh nhân ĐTĐ typ 2 (lớn hơn cỡ mẫu tính theo lý thuyết là 33) theo tiêu chuẩn chẩn đoán của WHO – 2001:
– Glucose huyết tương lúc đói > 7,0 mmol/l (làm xét nghiệm ít nhất hai lần).
– Glucose huyết tương bất kì > 11,1 mmol/l (làm xét nghiệm ít nhất hai lần).
– Glucose huyết tương 2 giờ sau uống 75g glucose > 11,1 mmol/l.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có tiền sử mắc các bệnh lý tim mạch, thận, gan…
Đang có biến chứng cấp: hôn mê, nhiễm khuẩn cấp tính (lấy mẫu khi bệnh nhân đã ổn định).
Đang có bệnh mạn tính kèm theo: Goutte, viêm khớp dạng thấp, Parkinson, viêm gan.
Đang điều trị bằng các thuốc Vitamin B6, B12, folate.