Phân lập các chủng virus HPV gây u nhú phổ biến tại Thái Nguyên năm 2011

Phân lập các chủng virus HPV gây u nhú phổ biến tại Thái Nguyên năm 2011

Một trong các biện pháp dự phòng ung thư cổ tử cung là tiêm vắc xin phòng virus HPV. Tuy nhiên tiêm vắc xin chỉ có thể phòng được một số chủng HPV. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu tỷ lệ hiện nhiễm và các chủng HPV phổ biến tại Thành phố Thái Nguyên để cung cấp thông tin cho các hoạt động phòng chống ung thư cổ tử cung. Với thiết kế cắt ngang, mẫu gồm 1000 phụ nữ đã lập gia đình độ tuổi từ 18- 65 tại Thái nguyên năm 2011, nghiên cứu đã phỏng vấn, khám và lấy mẫu xét nghiệm HPV, Pap smear. Kết quả cho thấy tỷ lệ hiện nhiễm HPV cổ tử cung của phụ nữ đã lập gia đình tuổi từ 18 – 65 tại Thành phố Thái Nguyên là 9,2%. Phần lớn các phụ nữ dương tính với HPV đều nhiễm chủng nguy cơ cao, có khả năng gây ung thư cổ tử cung. Các chủng HPV phổ biến nhất trong mẫu nghiên cứu là 3 chủng nguy cơ cao HPV 16, HPV18, và HPV58 và 2 chủng HPV nguy cơ thấp là HPV81 và HPV11. Tỷ lệ hiện nhiễm HPV tại Thái Nguyên là khá cao. Các chương trình dự phòng ung thư cổ tử cung tại Thái nguyên nên sử dụng các số liệu từ nghiên cứu để lập kế hoạch cho các hoạt động can thiệp trong tương lai.

Việt nam có tỷ lệ ung thư cổ tử cung (UTCTC) cao nhất trong các nước Đông Nam Á [1]. Số liệu từ hệ thống ghi nhận ung thư tại Thái Nguyên đã cho thấy chiều hướng gia tăng tỷ lệ trong những năm gần đây [2]. Có hai nhóm chiến lược chính để dự phòng ung thư: một là đẩy mạnh hoạt động nâng cao sức khỏe cộng đồng thông qua các hoạt động truyền thông, giáo dục và hai là truy tìm căn nguyên ung thư và ngăn ngừa bệnh xảy ra hoặc các biện pháp phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm. Với bệnh UTCTC, các nghiên cứu tổng hợp gần đây cho thấy 95% các trường hợp ung thư cổ tử cung có tiền sử bị nhiễm virus HPV gây u nhú [3]. Vì virus HPV gây u nhú được coi là nguyên nhân ung thư cổ tử cung, đã có rất nhiều nỗ lực phát triển vắc xin phòng ung thư. Hiện tại đã có 2 loại vắc xin phòng HPV trên thế giới đó là Gardasil và Cervarix. Việt nam cũng bắt đầu triển khai dịch vụ tiêm các vắc xin này để dự phòng UTCTC. Tuy nhiên các vắc xin này chỉ có thể được các chủng HPV 6,11, 16, và 18.4 Để có thể lập kế hoạch cho các hoạt động dự phòng UTCTC tại Thái Nguyên, chúng ta cần phải biết được các chủng HPV phổ biến trong cộng đồng và qua đó dự trù được hiệu quả của chương trình dự phòng bằng vác xin. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu tìm hiểu tỷ lệ hiện nhiễm HPV cổ tử cung của phụ nữ đã lập gia đình trong độ tuổi 18 – 65 tại Thái Nguyên và phân lập các chủng HPV phổ biến.
II.    ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu cắt ngang chọn mẫu cụm nhiều giai đoạn, tiến hành năm 2011. Áp dụng công thức tính cỡ mẫu một tỷ lệ với độ chính xác tương đối (p = 0,10, €= 0,25, D = 1,6 dự phòng từ chối = 10%), cỡ mẫu cho điều tra cộng đồng này là 1050 phụ nữ đã lập gia đình tuổi từ 18 – 65 (được lựa chọn ngẫu nhiên từ danh sách phụ nữ tại 5 xã/phường cũng được chọn ngẫu nhiên từ 28 xã/phường Thái Nguyên). Tỷ lệ tham gia nghiên cứu khá cao (95,2%) và cỡ mẫu thực tế là 1000 người. Phụ nữ tham gia nghiên cứu được phỏng vấn, khám phụ khoa, xét nghiệm HPV và phiến đồ tế bào âm đạo bất thường (Pap Smear). Kết quả xét nghiệm HPV và phiến đồ tế bào âm đạo được gửi lại cho đối tương nghiên cứu cùng với hướng dẫn tư vấn liên quan đến kết quả xét nghiệm, số liệu được nhập bằng phần mềm EpiData 3,0 và phân tích bằng phần mềm SPSS 18,0. Nghiên cứu được hội đồng Đạo đức của trường Đại học Y tế công cộng thông qua.
III.    KÉT QUẢ
Mô tả đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Bảng 1 trình bày đặc điểm đối tượng nghiên cứu trong mẫu. Các phụ nữ tham gia nghiên cứu phần lớn thuộc độ tuổi từ 30 đến 50 tuổi, với trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên và đang sống với chồng. Nghề nghiệp của các đối tượng tham gia nghiên cứu tương đối đa dạng và được chia thành 4 nhóm lớn như trong bảng.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment