Phân tách và xác định các Glycoprotein của bệnh nhân chậm phát triển tâm thần do hội chứng fragile X
Hội chứng Fragile X hay còn gọi là hội chứng nhiễm sắc thể (NST) X dễ gẫy, là một trong những rối loạn di truyền chủ yếu gây chậm phát triển tâm thần (CPTTT). Tần suất mắc hội chứng Fragile X trong quần thể dân cư vào khoảng 1/2000 – 4000 đối với nam và 1/4000 – 8000 đối với nữ. Nguyên nhân của hội chứng Fragile X là do đột biến gen FMR1 (Fragile X Mental Retardation 1) nằm trên nhiễm sắc thể X. Sản phẩm của gen FMR1 là FMRP (Fragile X Mental Retardation Protein = FMRP). Sự vắng mặt của FMRP trong hội chứng Fragile X là một trong những nguyên nhân chính gây CPTTT. FMRP có chức năng chính là vận chuyển ARN từ nhân ra bào tương, điều hoà quá trình dịch mã, FMRP được cho là có vai trò chính trong việc điều hoà vận chuyển mARN tại tế bào thần kinh [3, 4]. FMRP tham gia điều hoà các protein khác trong cơ thể, đặc biệt là các protein tham gia cấu tạo hệ thần kinh, vì vậy khi FMRP bị biến đổi thì kéo theo sự biến đổi của một loạt các protein khác trong cơ thể [5, 8, 10].
Những nghiên cứu về gen đột biến FMR1 đã được tiến hành rất nhiều, tuy nhiên thách thức chính đối với các nhà khoa học hiện nay là sự biến đổi hậu phiên mã, hơn nữa những hiểu biết về hệ protein của các bệnh nhân CPTTT do hội chứng Fragile X còn hạn chế. Liệu sự vắng mặt của FMRP gây ra những biến đổi gì đối với các protein khác trong hệ protein và liên quan đến bệnh lý.
Dựa trên sự phát triển của ngành khoa học proteomics tại Việt Nam – một ngành khoa học nghiên cứu về proteome (hệ protein), chúng tôi tiến hành nghiên cứu hệ protein của các bệnh nhân CPTTT do hội chứng Fragile X, với bước đi đầu tiên là nghiên cứu hệ glycoprotein trong huyết thanh của bệnh nhân. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
Xác định các biến đổi glycoprotein trong huyết thanh của các bệnh nhân CPTTT do hội chứng Fragile X.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
5 mẫu huyết thanh của 5 bệnh nhân nam bị CPTTT do hội chứng Fragile X được chẩn đoán trên lâm sàng và bằng di truyền tế bào có kết quả fragile X (NST X gẫy) dương tính.
5 mẫu huyết thanh của 5 người nam bình thường được sử dụng làm mẫu đối chứng. Người bình thường không phát hiện mắc các bệnh cấp tính, mạn tính hay các bệnh lý di truyền.
Mẫu bệnh và mẫu đối chứng được lựa chọn bằng xét nghiệm di truyền tế bào tìm fragile X và tương ứng về tuổi, giới, chủng tộc.
2. Phương pháp nghiên cứu
Thu thập mẫu: Lấy máu tĩnh mạch ngoại vi không chống đông, ly tâm và thu 1 – 2 ml huyết thanh.
Sử dụng các kỹ thuật proteomics để phân tích hệ glycoprotein trong huyết thanh
Thu nhận glycoprotein qua cột sắc kí ái lực với ConA: 300 µl huyết thanh (tương đương khoảng 20 mg protein) được hòa trong đệm cân bằng lectin conA (tỷ lệ 1:10) và được đưa lên cột sắc kí với tốc độ dòng chảy là 0,1ml/phút. ConA kết hợp với sepharose ứng dụng để tinh sạch các loại glycoprotein, polysaccarid, glycolipid, các liên kết kháng thể, IgM, các glycoprotein ở bề mặt tế bào. Các glycoprotein bám trên cột sắc kí ConA được thôi ra bằng 8 ml dung dịch methyl – – D – glucopyranosid 0,5 mM.
Điện di protein một chiều: Kiểm tra kết quả protein thu được bằng kỹ thuật điện di biến tính trên gel polyacrylamid (SDS – PAGE).
Điện di protein hai chiều: phân tích thành phần và mức độ biểu hiện của protein. Điện di 2 chiều được thực hiện trên máy điện di đẳng điện PROTEAN IEF với ReadyStrip IPG strip, 7 cm, pH 4 – 7 của Bio – Rad (Bio – Rad, Hercules, CA, USA) sử dụng các quy trình theo hướng dẫn của nhà xản xuất. 169 µg glycoprotein được hòa với 125 µl đệm ReadyPrep Rehydration (ure 8M, 2% CHAPS, DTT 50mM, 0,2% (w/v) Bio – Lyte 3/10 ampholyte và Bromophenol Blue). Bước khử nước (rehydrate hóa) được thực hiện trên Ready Strip IPG strip trong 12 giờ, 45V. Chiều điện di 1, các glycoprotein được phân tách theo điểm đẳng điện (pI) trên hệ PROTEAN IEF. Sau đó các strip được khử bằng đệm cân bằng 1 (Ure 6M, SDS 2%, Tris – HCl pH 8,8 0,375M, glycerol 20% và DTT 2% (w/v)) và alkyl hóa bằng đệm cân bằng 2 (Ure 6M, SDS 2%, Tris – HCl pH 8,8 0,375M, glycerol 20% và IAA 40 mg/ml). Chiều điện di 2, phân tách theo khối lượng phân tử bằng điện di SDS – PAGE 12,6% thực hiện ở điều kiện điện thế 120V trong 2 giờ.
Phân tích định lượng mức độ biểu hiện protein bằng công cụ tin sinh học: Gel điện di 2 chiều được nhuộm bằng Coomassie Brilliant Blue R250, sau đó quét bằng máy Molecular Imager FX và phân tích hình ảnh gel với sự hỗ trợ của phần mềm PD Quest v7.1 (Bio – Rad, Hercules, CA, USA). Các điểm protein được so sánh vị trí tương đồng và định lượng mức độ biểu hiện trên ảnh 3 chiều giữa mẫu người thường và mẫu người bệnh. Những điểm có sự khác biệt đáng kể được lựa chọn và cắt tự động bằng máy Spot Cutter (Bio – Rad, Hercules, CA, USA) để phân tích khối phổ.
Phân tích hỗn hợp protein bằng kỹ thuật sắc kí lỏng 2 chiều kết nối khối phổ liên tục (NanoLC – ESI – MS/MS) và nhận dạng glycoprotein
Các điểm protein được cắt và thủy phân bằng trypsin. Hỗn hợp peptid sau khi thủy phân được phân tích trên hệ thống sắc kí nano LC (Packing, Dionex, Netherland). Peptid được loại muối và cô đặc trên cột TRAP C18 (PepMap100, LC Packing, Dionex, Netherland) và phân tách trên cột sắc kí ngược pha C18 (GraceVydac, Hesperia, CA, USA). Mẫu được đưa lên cột với tốc độ dòng 0,2 µl/phút bằng FA 0,1% và thôi ra khỏi cột C18 bằng gradient từ 0 đến 100% đệm B trong 90 phút. Quá trình thực hiện khối phổ liên tiếp được tiến hành trên máy QSTARR XL.
Ghi phổ nanoLC – ESI – MS/MS và phân tích dữ liệu phổ bằng phần mềm Mascot v1.8. Ngưỡng độ tin cậy được đặt mặc định là 99.5%. Các protein có tổng điểm số trên 30. Các protein được nhận dạng và phân tích dựa trên cơ sở dữ liệu protein của Homo sapiens của toàn bộ cơ sở dữ liệu NCBInr [1, 2, 9].
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích