PHÂN TÍCH 58 TRƯỜNG HỢP CẮT DẠ DÀY TOÀN PHẦN

PHÂN TÍCH 58 TRƯỜNG HỢP CẮT DẠ DÀY TOÀN PHẦN

PHÂN TÍCH 58 TRƯỜNG HỢP CẮT DẠ DÀY TOÀN PHẦN


 

Đinh Quang Tâm*, Dương Văn Hải*, Lê Quang Nghĩa*, Nguyễn Tạ Quyết

 Phẫu thuật vẫn là nền tảng cho điều trị tận gốc trong ung thư dạ dày (UTDD) trong hơn 1 thế kỷ qua(6). Theodore Billroth thực hiện thành công trường hợp cắt dạ dày đầu tiên trong điều trị ung thư ở Vienna năm 1881. Đầu thế kỷ XX, các nổ lực được tập trung chủ yếu vào việc chuẩn hóa kỹ thuật mổ nhằm phục hồi lưu thông ống tiêu hóa và tránh tỉ lệ tử vong.


Các vấn đề về ung bướu học của phẫu thuật dạ dày đã trở nên mối quan tâm chính vào những năm 1940. Vào thời gian này, tái phát tại chỗ và tại vùng là mối quan tâm chính(27). Phân tích các kiểu mẩu trong thất bại điều trị tại chỗ cho thấy rằng nhiều bệnh nhân tái phát ở vùng trục thân tạng và giường lách. Đây chính là lý do cho việc đề nghị cắt dạ dày toàn phần (CDDTP) cùng với cắt lách và nạo hạch quanh thân tạng và ĐM chủ(3,21,22).

Hiện nay, dù đã có vài phương pháp phẫu thuật trong điều trị tận gốc UTDD, vẫn còn nhiều bàn cãi về chiến lược điều trị và các vấn đề khác phân chia thành các trường phái phẫu thuật(26). Nhìn chung, nếu không tính kỹ thuật mổ, có 3 khuynh hướng chính. Thứ nhất là về mức độ cắt dạ dày. Thứ hai là vấn đề xử dụng phương pháp nạo hạch rộng do các tác giả Nhật đề nghị trong hơn 20 năm qua. Thứ ba là phương pháp điều trị tối ưu cho UTDD phát hiện sớm.

Trong các thập niên 1950, 1960 và đầu thập niên 1970, CDDTP được coi là tiêu chuẩn vàng trong điều trị tận gốc UTDD. Điều này dựa trên vài nghiên cứu hồi cứu trước đó, cho rằng cắt dạ dày bán phần không đủ kiểm soát UTDD do tỉ lệ tái phát tại chỗ cao [23,28,39]. Tuy nhiên, do tử vong phẫu thuật chung quá cao (15% ở trung tâm chuyên khoa phương tây đến 29% ở phẫu thuật viên tổng quát), CDDTP không được chấp nhận rộng rãi ở các nước phương tây [1,2,6]. Cho nên, cắt dạ dày bán phần vẫn được thực hiện khi có thể, nhất là với bướu ở phần xa dạ dày, có tỉ lệ tử vong chung thấp hơn.

Ngày nay, nhờ các tiến bộ về kỹ thuật và nội khoa, tỉ lệ tử vong kết hợp với CDDTP đã giảm nhiều, nhưng các khoảng cách lớn vẫn còn tồn tại giữa các quốc gia, và giữa các trung tâm chuyên khoa với bệnh viện tổng quát. Ở Nhật, nơi có kinh nghiệm phẫu thuật và sự thành thạo kỹ thuật cao nhất do suất độ cao của bệnh, tỉ lệ tử vong phẫu thuật là 3% ở bệnh viện tổng quát. Ở bệnh viện chuyên khoa như Bệnh viện ung thư quốc gia Nhật, tỉ lệ này là 1% hoặc nhỏ hơn 5,26,45). Ở Mỹ, một khảo sát ở 700 cơ sở do ACS (American College of Surgeons) thực hiện trong thập niên 1980 cho thấy tỉ lệ tử vong là 7,2%. Các trung tâm chuyên khoa phương tây có tỉ lệ tử vong 1-3% ở các nghiên cứu chọn lọc(41.

Trong lúc ở Nhật có khuynh hướng gia tăng phẫu thuật tận gốc, các nước phương tây thực hiện cắt dạ dày bán phần trong 2/3 các trường hợp với ý định điều trị tận gốc(15,20,25). Hai nghiên cứu ngẫu nhiên được thực hiện để giải quyết vấn đề này(11,16).

Hiệp hội nghiên cứu phẫu thuật Pháp (có 26 cơ sở tham gia) ngẫu nhiên hóa 169 bệnh nhân ung thư hang vị được cắt dạ dày toàn phần hoặc bán phần(11). Tỉ lệ tử vong là 1,3 và 3,2% ở cắt dạ dày bán phần và toàn phần. Tỉ lệ sống 5 năm là 48% ở cả 2 nhóm.

Nhóm nghiên cứu bướu ống tiêu hóa Ý (có 31 cơ sở tham gia) ngẫu nhiên hóa 618 bệnh nhân ung thư phần xa dạ dày(16). Tỉ lệ tử vong là 1,3 và 2,3%, và tỉ lệ sống 5 năm là 65,3% và 62,4% ở cắt dạ dày bán phần và toàn phần.

Kết quả các nghiên cứu này cho thấy cả 2 phương pháp có thể thực hiện an toàn trong ung thư hang vị và cho tỉ lệ sống 5 năm như nhau.

Mục đích của CDDTP là: (1) Làm sạch tế bào ung thư ở cả 2 đầu thực quản và tá tràng. (2) Nạo hạch tại chỗ và tại vùng nằm trong các mô, kể cả các ĐM vị (P) và (T), vị mạc nối (P) và các ĐM vị ngắn. (3) Lấy mạc nối lớn thành 1 khối với dạ dày. (4) Lấy các mô bạch huyết nằm trước bao tụy.

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment