PHÂN TÍCH KIỂU GEN P.VIVAX PHÂN BIỆT TÁI PHÁT VÀ TÁI NHIỄM TRONG NGHIÊN cứu HIỆU QUẢ THUỐC SỐT RÉT (INVIVO)
Tổng số 17 bệnh nhân nhiễm p.vỉvax đơn thuần nghiên CÍŨI in vivo theo dõi 28 ngày với chìoroquin có một trường hợp xuất hiện ỉạì KST ở D2Ỉ và 9 bệnh nhân nhiễm phối hợp p.falciparum và p.vivax điều trị bằng thuốc Obeỉix (dạng kết hợp giữa dihydroartemisỉnin và piperaquin), có một trường hợp KST xuất hiện lại vào D60. Kết quả phân tích kiểu gen SMP3a và CSP bằng kỹ thuật PCR xác định cả hai mẫu xuất hiện lại KST đều ỉà tái phát.
1 .MỞ ĐẦU
Nghiên cứu đánh giá hiệu quả của thuốc điều trị sốt rét bằng kỹ thuật in vivo 28 ngày tại thực địa là một nghiên cứu quan trọng và thực tế. Đối với p./aỉcìparum, việc sử dụng kỹ thuật PCR phân tích kiểu gen SMPỈ, SMP2 và GLƯRP để phân biệt KST nhiễm mớí hay tái phát sau điều trị đã được sử dụng rộng rãi [3]. Hiện nay, kỹ thuật phân tích kiểu gen cũng được áp dụng đối với p.vivax để xác định tái phát hay tái nhiễm [4]. Phân tích kiểu gen chính là dựa vào một số gen có tính đa hình cao để phân biệt sự khác nhau về di truyền giữa các dòng KST trong máu bệnh nhân sốt rét [5,6,7]. Trong nghiên cứu này chúng tôi phân tích hai gen đích đa hinh được nhiều nhà nghiên cứu xử dụng, đó là gen mã hoá proteìn bề mặt thể meroioit (SMP3a) [5] và gen mã hoá proteỉn bề mặt thể sporozoit (CSP) [6] của p.vivax. Mẫu phân tích là những cặp mẫu máu của bệnh nhân sốt rét p.vỉvax thử nghiệm invivo tại thực địa ở ngày đầu chưa uống thuốc (DO) và ngày xuất hiện KST trở lại sau khi điều trị thuốc. So sánh trực tiếp kết quả phân tích kiểu gen và biến thể alen để xác định tái phát hoặc tái nhiễm cho những cặp mẫu này.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất