Phân tích một số yếu tố liên quan tới mức độ tàn tật ở bệnh nhân phong tại tỉnh Hà Nam

Phân tích một số yếu tố liên quan tới mức độ tàn tật ở bệnh nhân phong tại tỉnh Hà Nam

Tàn tật do bệnh phong là rất phổ biến và có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến. Nghiên cứu nhằm phân tích một số yếu tố liên quan tới mức độ tàn tật ở bệnh nhân phong tại tỉnh Hà Nam năm 2010. Kết quả cho thấy: Những người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên) có nguy cơ mắc tàn tật ở mặt, ở bàn tay và ở bàn chân cao hơn những người trẻ tuổi. Những người mắc bệnh từ 20 năm trở lên có nguy cơ mắc tàn tật ở mặt, ở bàn tay và ở bàn chân cao hơn những người mắc bệnh dưới 20 năm. Những người có thể bệnh MB có nguy cơ mắc tàn tật ở bàn tay và bàn chân cao hơn những có thể bệnh PB. Từ đó có thể kết luận, tuổi cao, thời gian mắc bệnh dài, thể bệnh MB là những yếu tố làm tăng nguy cơ tàn tật trên các bệnh nhân phong được nghiên cứu.

Tàn tật trong bệnh phong được chia làm hai loại, tàn tật tiên phát và tàn tật thứ phát. Tàn tật tiên phát là do trực khuẩn phong xâm nhập vào dây thần kinh gây viêm, tổn hại dây thần kinh dẫn đến các thương tổn như mất cảm giác nóng lạnh, sờ mó, đau; liệt cơ, teo cơ, có ngón tay chân, bàn chân rủ, mắt thỏ, tiêu xương, giảm tiết mồ hôi làm da bị khô. Các tàn tật thứ phát do người bệnh không biết bảo vệ chăm sóc bàn tay, bàn chân mất cảm giác, không phòng các thương tích ở mắt do chứng hở mi, mất cảm giác giác mạc mà gây nên các tàn tật này. Đó là loét ổ gà bàn chân, cụt rụt ngón tay chân, nặng hơn có thể cụt rụt cả bàn tay, bàn chân. Mắt bị viêm kết mạc, giác mạc dẫn đến mù lòa. Các tàn tật thứ phát trên bệnh nhân phong thường nhiều và nặng hơn tàn tật tiên phát; tuy nhiên nếu người bệnh được giáo dục y tế và biết chăm sóc tốt bàn tay, bàn chân mất cảm giác và mắt bị hở mi thì sẽ hạn chế và tránh được các tàn tật loại này.
Trên Thế giới cũng như ở Việt Nam có một số công trình nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến tàn tật. Hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy, tỷ lệ tàn tật tăng thuận chiều với độ tuổi của bệnh nhân phong từ 16 – 59 tuổi là 53 – 70% [3, 4, 7]. Nguyễn Xuân Túc nghiên cứu tại Nghệ An thông báo rằng những người ở độ tuổi 16 – 59 có tỷ lệ mắc tàn tật rất cao, chiếm 89,6% [10]. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nam giới có xu hướng mắc tàn tật nhiều hơn nữ giới. Theo Lê Văn Thuận, tỷ lệ mắc tàn tật ở nam giới cao hơn ở nữ giới (83,8% so với 79,8%) [8]. Một số nghiên cứu khác lại cho thấy tỷ lệ mắc tàn tật ở bệnh nhân phong không có sự khác biệt giữa nam và nữ. Phạm Văn Hiển và Đỗ Văn Thành cũng thông báo tỷ lệ mắc tàn tật giữ nam và nữ gần tương tự nhau (79,2% và 79,5%) [5, 9]. Thể bệnh cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến tàn tật trên bệnh nhân phong. Theo Phạm Văn Hiển thì tỷ lệ tàn tật trên nhóm bệnh MB cao hơn tỷ lệ tàn tật trên nhóm PB (83,9% so với 67,2%) [7]. Tuy nhiên, ở tỉnh Hà Nam vẫn chưa có nghiên cứu nào nêu lên các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ tàn tật do bệnh phong. Do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu: Phân tích một số yếu tố liên quan tới mức độ tàn tật ở bệnh nhân phong trên tại tỉnh Hà Nam năm 2010.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1.    Đối tượng
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định là bệnh phong, đang được quản lý và chăm sóc tàn tật tại tỉnh Hà Nam từ tháng 9/2010 đến 8/2010 và tự nguyện tham gia nghiên cứu.
2.    Phương pháp
Nghiên cứu mô tả cắt ngang nhằm mô tả tỷ lệ mắc tàn tật trên các bệnh nhân phong và một số yếu tố ảnh hưởng. Cỡ mẫu được tính theo công thức sau:
n = Z2 pq_
11 – ^(1 – a/2) d 2
Trong đó: n: cỡ mẫu, Z(1-a/2): Hệ số tin cậy ở mức xác suất 95%, p: Tỷ lệ bệnh nhân có mắc tàn tật (90%), q: Tỷ lệ bệnh nhân không mắc tàn tật (10%), d: độ chính xác mong muốn 4%. Cỡ mẫu tính được là 178 bệnh nhân. Mẫu nghiên cứu được chọn theo kỹ thuật chọn mẫu toàn bộ. Tất cả 178 bệnh nhân phong đang được điều trị và quản lý tại 5 huyện, 1 thành phố và 1 khu điều trị phong thuộc tỉnh Hà Nam. Kỹ thuật thu thập số liệu được sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm: phỏng vấn bệnh nhân và khám lâm sàng. Việc phân tích số liệu được thực hiện trên phần mềm SPSS 16.0. Kết quả nghiên cứu được trình bày bằng bảng tần số, tỷ lệ %, bảng 2×2. Việc so sánh tỷ lệ tàn tật và hình thái tàn tật giữa các nhóm bệnh nhân, nhóm bệnh sử dụng test kiểm định giả thuyết.
III.    KẾT QUẢ
Một số đặc trưng cá nhân: Đa số bệnh nhân đều ở độ tuổi từ 60 trở lên (chiếm 81,5%), tiếp theo là độ tuổi 50 – 59 (chiếm
11,    8%). Tỷ lệ bệnh nhân tuổi 40 – 49 chiếm 5,6% và dưới 40 chiếm 1,1%. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 68,9 ± 12,10. Bệnh nhân thấp tuổi nhất là 36 tuổi và cao tuổi nhất là 94 tuổi. Tỷ lệ bệnh nhân nam cao hơn nữ, (59,6% và 40,4%). Đa số bệnh nhân có trình độ học vấn thấp, tỷ lệ người mù chữ chiếm 18%, trình độ tiểu học chiếm tỷ lệ cao (76,4%), trình độ từ trung học cơ sở và phổ thông trung học chỉ 5,6%. Tỷ lệ bệnh nhân làm ruộng cao (99,1%) và nghề nghiệp khác như buôn bán có 1 người, chiếm 0,9%.
Yếu tố liên quan với tàn tật: Bảng 1 cho thấy những người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên) có nguy cơ mắc tàn tật ở mặt cao hơn những người trẻ tuổi hơn (35,2% so với 12,1%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Nam giới có nguy cơ mắc tàn tật ở mặt cao hơn nữ giới (33% so với 27,8%). Sự khác biệt này không mang ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Kết quả nghiên cứu cho thấy những người biết chữ có nguy cơ mắc tàn tật ở mặt cao hơn những người mù chữ (32,2% so với 25%) nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Những người có thể bệnh MB có nguy cơ mắc tàn tật ở mặt cao hơn những có thể bệnh PB (47,5% so với 10,1%). Sự khác biệt này mang ý nghĩa thống kê với p < 0,001. Những người mắc bệnh từ 20 năm trở lên có nguy cơ mắc tàn tật ở mặt cao hơn những người mắc bệnh dưới 20 năm (32% so với 0%). Tương tự, những người

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment