Phát hiện song nhiễm và định týp virus viêm gan c (hcv) và g (hgv) trên bệnh nhân viêm gan do virus nhập viện Hà Nội
Nhiễm virus viêm gan C (HCV, Hepatitis C virus) là một trong những nguyên nhân dẫn đến viêm gan mạn tính, xơ gan và ung thư tế bào gan nguyên phát [1]. Tỷ lệ nhiễm HCV ở Việt Nam có xu hướng ngày càng tăng, do chưa chú ý hoặc chưa có điều kiện cải tiến hệ thống sàng lọc máu và số người tiêm chích ma túy ngày càng gia tăng [1]. Các virus viêm gan có xu hướng đa nhiễm cùng nhau và cùng với HIV (Human Immunodefi- ciency Virus) tạo nên mối quan hệ lây nhiễm phức tạp và khó chẩn đoán phát hiện trong sàng lọc máu. Năm 1996, một loại virus ARN được phát hiện từ huyết thanh của một bệnh nhân mắc bệnh gan ở Mỹ và được đặt tên là viêm gan GB virus C (Hepatitis GB virus C), sau đó được mang tên viêm gan virus G (HGV, Hepatitis G virus) có xu hướng song nhiễm cùng HCV hoặc/và HIV [2].
Hiện nay, bên cạnh phương pháp huyết thanh học, nhiều kỹ thuật khác nhau đã được sử dụng để chẩn đoán virus viêm gan HCV và HGV [1; 5], trong đó có RT – PCR phát hiện nhiều virus ARN viêm gan C và HIV ở giai đoạn sớm, chính xác và đặc hiệu và tính song/đa nhiễm của chúng [2; 5]. Một trong những chỉ thị phân tử được dùng nhiều nhất là 5UTR (vùng không mã hoá ở đầu 5 của hệ gen) trong định týp và nghiên cứu phả hệ [10], trong đó có các mẫu HCV của Việt Nam [5; 6]. Mục tiêu:
1. Phát hiện HCV và HGV song nhiễm trong cùng mẫu bệnh phẩm của bệnh nhân.
2. Định týp từng loại HCV và HGV; phân tích quan hệ genotýp của từng virus.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Mẫu bệnh phẩm viêm gan virus
4 mẫu huyết thanh HCV+ và HIV+ từ viện Vệ sinh phòng dịch Quân đội và bệnh viện Bạch Mai.
2. Tách chiết ARN tổng số chứa hệ gen của virus viêm gan
ARN tổng số được tách chiết bằng bộ kit QIAamp RNA Viral Mini Kit (QIAGEN), theo hướng dẫn của nhà sản xuất [5].
3. Phản ứng RT – PCR, tách dòng và giải trình trình tự
Phản ứng RT – PCR một bước (one – step RT – PCR) của hãng QIAGEN được sử dụng để thu nhận vùng 5UTR: I) HCV; sản phẩm có độ dài 295 bp [2], cặp mồi CC1F và CC2R; II) HGV; sản phẩm có độ dài là 260 – 262 bp [8], mồi HG1F và HG1R. Sản phẩm RT – PCR vùng 5UTR được dòng hoá vào vector pCR2.1 – TOPO (Invitrogen), chọn lọc, tách chiết và giải trình trên máy tự động ABI – 3100 Avant Genetic Analyzer (Mỹ). Chuỗi nucleotide được xử lý, so sánh đối chiếu bằng các chương trình chuyên biệt [4].
4. Phân tích chuỗi gen và định týp HCV/HGV Định týp được thực hiện bằng cách so sánh với chuỗi gen 5UTR của các genotýp khi truy cập
Nhiễm virus viêm gan C (HCV) có song nhiễm cùng HGV hay không ở Việt Nam và định týp chính xác HCV, HGV cần sáng tỏ. Mục tiêu: phát hiện và định týp HCV và HGV ở 4 mẫu máu bệnh nhân viêm gan bằng phương pháp sinh học phân tử. Đối tượng nghiên cứu: 4 mẫu huyết thanh, anti – HCV (Hepatitis C virus) dương tính. Phương pháp nghiên cứu: Tách ARN, thực hiện RT – PCR, xác định HCV, vùng 5UTR (295 nucleotide); tiếp tục làm khuôn thực hiện RT – PCR, HGV (Hepatitis G virus), vùng gen 5UTR (260 nucleotide), giải trình tự và so sánh. Kết quả: một số mẫu cho sản phẩm HCV, sản phẩm HCV và HGV; như vậy HCV và HGV đã song nhiễm. Truy cập Ngân hàng gen, phân tích nucleotide và phả hệ cho thấy, 3 chuỗi nucleotide của HCV (ký hiệu: HCV – H1VN; HCV – H2VN; HCV – H3VN) thuộc genotýp 1a, phổ biến vùng Đông và Nam Á. HGV của Việt Nam (chủng HGV – (Han9)VN phát hiện thuộc genotýp 2 trong số 5 genotýp tồn tại trên thế giới. Kết luận: 3 mẫu HCV thuộc genotýp 1a; 1 mẫu HGV song nhiễm với HCV, thuộc genotýp 2. Song/đa nhiễm viêm gan, định týp và xây dựng kit chẩn đoán đa năng (multiplex – PCR/RT – PCR) sàng lọc các virus viêm gan truyền qua máu là cần thiết.
.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích