Phát hiện thiếu hụt G6PD và phân tích các dạng đột biến gen của nó ở một số trường hợp thuộc các dân tộc Kinh, Mường, Racley và Tày ở Hà Nội, Hoà Bình, và Khánh Hoà
Thiếu hụt G6PD là bênh lý enzym di truyền hồng cầu hay gặp nhất ở người, bênh ảnh hưởng đến trên 400 triệu người trên toàn thế giới. Trên 100 dạng đột biến gen mà hầu hết là đột biến điểm đã được công bố. Đến nay, nghiên cứu về các dạng đột biến của thiếu hụt G6PD người Việt Nam mới chỉ là bắt đầu.
Trong nghiên cứu này 119 người trong tổng số 2871 người thuộc các dân tộc Kinh quanh Hà Nội, Mường Hoà Bình, Racley và Tày Khánh Hoà đã được phát hiện có thiếu hụt G6PD. 37 mẫu DNA của 32 người thiếu hụt G6PD và 5 người bình thường đã được phân tích gen. 7 dạng đột biến của 30 trường hợp thiếu hụt G6PD đã tìm thấy, đó là Viangchan, Chatham, Chinese-5, Union, Canton, Kaiping và Silent. Dạng đột biến Union và Chinese-5 chỉ tìm thấy ở nhóm người Mường, trong đó Union gặp tới 8/18 trường hợp được phân tích. Cũng ở nhóm đân tộc này, có hai gia đình, trong đó bố’ và mẹ đều mang gen bệnh [chưa lấy được máu của con] và 1 gia đình, mẹ và con trai đều bị bệnh dạng Canton.
của NST X (Xq.28), gen chứa 13 exon và dài khoảng 20 Kb, exon 1 không mã hoá [5,8]. Cùng với sự phát triển của sinh học phân tử thì cơ sở gen học của thiếu hụt G6PD, các dạng đột biến gen của nó đã và vần đang được nghiên cứu. Mỗi dạng đột biến gây ra những bệnh cảnh và mức độ nạng nhẹ khác nhau trước sự tấn công của thuốc và các chất oxy hoá [1,3]. Theo y văn thế’ giới tỷ lệ thiếu hụt G6PD cũng như các dạng đột biến gen của nó có sự khác nhau giữa các dân tộc và vùng địa lý. Châu Á, trong đó có Việt Nam, được xếp vào
khu vực có tỷ lê thiếu hụt G6PD cao (0,5 – 20%) [2,3,4,5]. Ở nưíc ta, tõ những năm 70 đến nay đã có nhiều công bố về tỷ lê thiếu hụt G6PD của một số’ dân tộc và địa phương, đạc biệt ở những vùng có sốt rét lưu hành [1,2]. Tuy nhiên những nghiên cứu về đột biến gen míi chỉ là bắt đẩu. Trong nghiên cứu này chúng tôi tiến hành phát hiện thiếu hụt G6PD và phân tích các dạng đột biến gen của nó ở một số trường hợp bệnh lý thuộc các dân tộc Kinh, Mường, Racley và Tày ở quanh Hà Nội, và các tỉnh Hoà Bình, Khánh Hoà – Việt Nam.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cúu
1. Đối tượng nghiên cứu:
1819 người Kinh trong đó 840 trẻ sơ sinh Hà Nội và 979 bệnh nhân vào khám tại Viện Quân Y 108 Hà Nội, 250 người Mường Hoà Bình, 720 người Racley và 82 người Tày Khánh Hoà.
2. Phương pháp nghiên cứu:
– Máu lấy tõ gót chân (trẻ sơ sinh), đẩu ngón tay (người lín) vào giấy Whatman 1 hoặc
S&S 903, lấy máu tĩnh mạch chống đông bằng EDTA.
– Phát hiện và đánh giá mức độ thiếu hụt: Kỹ thuật huỳnh quang định tính – Kít của hãng Sigma; kỹ thuật tạo vùng Formazan bán định lượng – Kít của hãng Sigma; kỹ thuật định lượng hoạt tính enzym – Kít của hãng Boehringer Mannheim.
– Phân tích gen: DNA tách tõ máu toàn phẩn, chống đông bằng EDTA theo qui trình chuẩn dùng phenol và chloroforn. Phản ứng PCR dùng các cặp mồi thích hợp cho 12 exon khác nhau của G6PD, sản phẩm thu được sẽ là khuôn cho phản ứng PCR đặc hiệu tiếp theo để phát hiện nhanh các điểm đột biến – MPTP [Multiplex PCR using Tandem Primers] theo mô tả của Shiratawa và CS [7], kít của hãng Sigma. Thực hiện PCS lẩn một 6 bưíc 40 chu kỳ, lẩn 2 MPTP 6 bưíc 30 chu kỳ trên máy PCR Beckman 9700. Đọc tình tự DNA trên máy phân tích tự động Model 310 của hãng ABI Prism. Kết quả được xử lý bằng chương trình tự động so sánh víi dữ liệu DNA chuẩn (GENETYX MAC).
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích