Phát triển thể chất của trẻ suy giáp trạng bẩm sinh
Suy giáp trạng là một bệnh nội tiết thường gặp, do tuyến giáp sản xuất hormon không đầy đủ để đáp ứng nhu cầu chuyển hoá và quá trình sinh trưởng của cơ thể. Tuy bệnh xuất hiện từ thời kỳ bào thai nhưng biểu hiện lâm sàng lúc đẻ không rõ, nên việc chẩn đoán thường bị muộn và để lại những hậu quả như lùn, đần độn. Nếu phát hiện sớm và điều trị ngay từ thời kỳ sơ sinh trẻ phát triển hoàn toàn bình thường.
Tần suất mắc SGTBS khoảng 1/3000 – 1/4000 trẻ sơ sinh đẻ ra sống trên thế giới trẻ mắc SGTBS. Ở Việt Nam theo nghiên cứu của bệnh viện Nhi Trung ương trong 10 năm (1992 – 2001) có 326 trẻ bị SGTBS đứng hàng thứ 4 các bệnh nội tiết vào điều trị tại Khoa Nội tiết – Chuyển hóa – Di truyền.
Theo dõi phát triển thể chất trẻ SGTBS là hết sức quan trọng, giúp thầy thuốc có thái độ điều trị thích hợp để trẻ phát triển bình thường về thể chất. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với mục tiêu: Nghiên cứu sự phát triển thể chất ở trẻ SGTBS đang điều trị tại bệnh viện Nhi Trung ương.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng nghiên cứu
Khoa Nội tiết – Chuyển hoá – Di truyền, Bệnh
viện Nhi Trung ương từ 6/1999- 6/2009, có
thời gian điều trị ít nhất từ 1 năm trở lên.
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân vào nghiên cứu.
Lâm sàng: Có các triệu chứng điển hình của SGTBS là chậm phát triển thể chất, tinh thần, phù niêm, táo bón…
Xét nghiệm: Nồng độ T4 toàn phần trong máu giảm dưới 50 nmol/l hoặc T4 tự do giảm dưới 9 pmol /l, nồng độ TSH trong máu tăng trên 20 mUI/ml, xạ hình không có tuyến giáp, thiểu sản tuyến giáp hoặc tuyến giáp lạc chỗ.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu theo dõi dọc theo thời gian.
Phương pháp chọn mẫu: Phương pháp chọn mẫu tiện ích, lấy tất cả bệnh nhân đủ tiêu chuẩn, từ 6/1999 – 6/2009, có thời gian điều trị ít nhất từ 1 năm trở lên.
Các chỉ số nghiên cứu
– Đặc điểm nhóm nghiên cứu: Số lượng bệnh nhân, tuổi lúc chẩn đoán.
– Sự phát triển thể chất: Chiều cao, cân nặng.
Phương pháp thu thập số liệu và đánh giá.
Chỉ số nghiên cứu
Đặc điểm nhóm nghiên cứu: Tuổi chẩn đoán phân thành 4 nhóm.
Tất cả bệnh nhân được theo dõi chiều cao và cân nặng định kỳ 3 tháng 1 lần.
Cách đánh giá: Tính SDS (Standard Deviation Score) chiều cao, cân nặng của từng bệnh nhân theo công thức:
X – M SDS =
SD
Trong đó: X: chiều cao hoặc cân nặng của bệnh nhi, M: Chiều cao hoặc cân nặng trung bình của các trẻ bình thường tương ứng về tuổi và giới (Quần thể trẻ Việt Nam bình thường) [2], SD: độ lệch chuẩn của chiều cao, cân nặng quần thể trẻ bình thường tương ứng theo tuổi và giới.
Đánh giá kết quả giá trị SDS như sau: 0 – 2: trẻ bình thường, từ -1 → < 0: chậm phát triển.
Xử lý số liệu: Bằng phần mềm SPSS 13.0 và Epi 6.04.
III. KẾT QUẢ
Đặc điểm nhóm nghiên cứu
Lứa tuổi trẻ được chẩn đoán SGTBS chia làm 4 nhóm, nhóm I (dưới 3 tháng tuổi) có 25 trẻ (17,6%), nhóm II (từ 3 – 12 tháng tuổi) có 49 trẻ (34,5%),nhóm III ( từ 12 – 60 tháng tuổi) có 39 trẻ (27,5%), nhóm IV (từ 5 – 15 tuổi) có 29 trẻ (20,4%). Như vậy tỷ lệ trẻ được chẩn đoán sớm trước 3 tháng tuổi thấp (17,6%).
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích