Phẫu thuật điều trị khuyết xương quay bẩm sinh ở trẻ em

Phẫu thuật điều trị khuyết xương quay bẩm sinh ở trẻ em

Khuyết xương quay là một dị tật bẩm sinh ít gặp. Khuyết xương của chi thể có thể theo trục dọc và theo trục ngang, khuyết xương quay là một dạng bệnh bẩm sinh khuyết theo trục dọc. Từ năm 1733 bệnh đã được giới thiệu trên y văn nhưng cho tới nay vẫn có nhiều ý kiến về nguyên nhân, các dấu hiệu nhận biết trên lâm sàng, X quang và kỹ thuật phẫu thuật cho bệnh lý này, do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài nhằm mục tiêu:

Qua da, chú ý bảo vệ nhánh cảm giác của dây thần kinh trụ nằm ngay dưới da. Bộc lộ nền các cơ gan tay và cơ duỗi cổ tay. Xác định và bộc lộ cơ duỗi cổ tay trụ tại điểm bám tận trên nền xương bàn V, tách về gốc chi. Bộc lộ mặt mu và mé trụ của khớp cổ tay. Rạch ngang bao khớp, bộc lộ đầu dưới xương trụ. Xương cổ tay là một số khối sụn nằm sâu mé quay của xương trụ, tiếp giáp cổ tay trụ, cắt từ trên xuống dưới dọc mé quay của đầu dưới xương trụ. Chú ý tránh lầm lẫn những khớp trong cổ tay nơi tiếp giáp khớp cổ tay trụ. Xác định khối sụn xương cổ tay và cắt một mảnh vuông ở phần giữa (xấp xỉ 1 cm) cho khớp với  đầu  dưới  xương  trụ.  Giải  phóng  đầu  dưới xương trụ từ nơi bám vào tổ chức phần mềm. Chú ý không làm tổn thương tới đầu xương hoặc điểm bám của tổ chức phần mềm. Đặt đầu dưới xương trụ vào khuyết xương cổ tay và cố định bằng một đinh Kirschner từ xương bàn III qua khuyết cổ tay tới xương trụ. Đầu dưới đinh Kirschner được bẻ cong và để dưới da ngay điểm xuyên đinh Kirschner. Tiến hành khâu bao khớp mé trụ, khâu bao khớp với cốt mạc xương trụ, khâu gân cơ duỗi cổ tay trụ tới nền xương bàn IV hoặc V, khâu đầu trên các cơ gan tay vào cốt mạc xương trụ tạo vững cho khớp cổ tay. Khâu da với chỉ Vicryl 4/0
Thiếu xương quay bẩm sinh là một vấn đề được bàn luận nhiều trong phẫu thuật viên Chỉnh hình Nhi. Mục tiêu: nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật của phương pháp trung tâm bàn tay. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: bốn mươi sáu bệnh nhân có thiếu xương quay bẩm sinh được phẫu thuật từ năm 1990 tới 2007. Bệnh được phân loại trên X quang theo Heikel. Ghi nhận các biến chứng có thể xẩy ra. Kết quả: có 46 bệnh nhân (61 cẳng tay) khuyết xương quay bẩm sinh. Phân loại theo Heikel với Type III chiếm 34,4%, Type IV chiếm 65,6%. Tất cả bệnh nhân được phẫu thuật theo phương pháp trung tâm bàn tay. Sau mổ, kết quả tốt chiếm 36,8%, kết quả khá chiếm 55,3% và kết quả kém chiếm 7,9%. Có 7,9% gẫy đinh cố định bàn tay và xương trụ. Kết luận: nghiên cứu này đánh giá phương pháp trung tâm bàn tay liên quan tới kết quả chức năng sau phẫu thuật và có thể được áp dụng cho điều trị thiếu xương quay bẩm sinh ở trẻ em.
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment