PHẪU THUẬT DỜI THẦN KINH Ổ RĂNG DƯỚI VÀ CẤY GHÉP IMPLANT NHA KHOA: BÁO CÁO CA LÂM SÀNG
PHẪU THUẬT DỜI THẦN KINH Ổ RĂNG DƯỚI VÀ CẤY GHÉP IMPLANT NHA KHOA: BÁO CÁO CA LÂM SÀNG
Võ Văn Nhân
Hội Răng Hàm Mặt thành phố Hồ Chí Minh
Kỹ thuật dời thần kinh ổ răng dưới để chuẩn bị vùng đặt implant được Jenson và Nock th ực hiện lần đầu vào năm 1987, đây là một trong các lựa chọn can thiệp nhằm tăng thể tích xương hàm dưới, đặc biệt theo chiều nhai – nướu. Báo cáo mô tả một trường hợp lâm sàng dời thần kinh ổ răng dưới, kết hợp ghép xương mào chậu tăng chiều cao xương, đặt 4 implant và phục hình toàn hàm nâng đỡ trên implant ở một bệnh nhân nam 59 tuổi có tình trạng xương hàm dưới tiêu xương ở mức độ trầm trọng. Kỹ thuật ghép nướu sừng hóa, tăng độ sâu ngách hành lang cũng được phối hợp nhằm cải thiện tình trạng mô quanh implant và mô liên kết vùng sống hàm lỏng lẻo. Kết quả: có tình trạng tích hợp xương tốt ở cả 4 implant, phục hình vững ổn và thực hiện chức năng tốt; không có biến chứng, dị cảm môi hồi phục hoàn toàn sau 4 tháng, bệnh nhân vận động bình thường 4 tuần sau phẫu thuật lấy xương mào chậu.
Một trong những vấn đề thường gặp ở bệnh nhân có xương hàm dưới bị tiêu xương trầm trọng có chỉ định đặt implant là thiếu thể tích xương, đặc biệt trong vùng giải phẫu liên quan đến ống thần kinh răng dưới. Trong các trường hợp này, cần chuẩn bị vùng xương tiếp nhận implant với chiều cao từ đỉnh sống hàm đến thần kinh ổ răng dưới đủ để đặt được implant có chiều dài thích hợp một cách an toàn (cách ống thần kinh 2 mm).
Có nhiều phương pháp được tiến hành nhằm cải thiện chiều cao từ đỉnh sống hàm đến ống thần kinh răng dưới như ghép xương theo chiều dọc, kéo dãn xương, tái sinh xương hướng dẫn, dùng implant ngắn và dời thần kinh ổ răng dưới. Phương pháp dời thần kinh để đặt implant đã được Jenson và Nock thực hiện lần đầu vào năm 1987 [1]. Sau đó, năm 1992, Rosenquist [2] thực hiện trên 10 bệnh nhân (26 implant), với tỷ lệ implant thành công là 96%. Tuy nhiên, quá trình phẫu thuật dời thần kinh rất phức tạp, luôn kèm theo các biến chứng kéo dài như: dị cảm môi, nhiễm trùng, gãy xương bệnh lý (trong đó, dị cảm môi là một triệu chứng luôn xảy ra, thường có tính chất tạm thời, song có thể không hồi phục trong một số trường hợp) [3; 4]. Tình trạng sức khỏe và thần kinh tâm thần của bệnh nhân, mức độ nhạy cảm, khả năng chấp nhận và hợp tác trong phẫu thuật và điều trị của bệnh nhân cũng là những yếu tố quan trọng cần lưu ý khi lựa chọn bệnh nhân.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất