Phẫu thuật Lewis trong điều trị ung thư thực quản 2/3 dưới

Phẫu thuật Lewis trong điều trị ung thư thực quản 2/3 dưới

Kỹ thuật cắt thực quản qua đường bụng và ngực phải được Ivor Lewis mô tả và thực hiện lần đầu tiên vào năm 1946. Nguyên tắc của phẫu thuật là mở bụng để di động dạ dày, sau đó mở ngực phải để cắt thực quản, vét hạch trung thất và đưa dạ dầy lên ngực để làm miệng nối thực quản – dạ dày [6]. Sau đó, phẫu thuật được nhiều phẫu thuật viên nghiên cứu, cải tiến và được áp dụng rộng rãi trong điều trị ung thư thực quản (UTTQ) 2/3 dưới [1, 6, 9].

Phẫu thuật Lewis được áp dụng tại Khoa phẫu thuật tiêu hóa, bệnh viện Việt Đức từ 1991 và trở thành phẫu thuật thường quy trong điều trị UTTQ 2/3 dưới. Mục tiêu:

Trình bày kỹ thuật mà chúng tôi đã thực hiện và đánh giá kết quả của phẫu thuật trong điều trị ung thư thực quản 2/3 dưới.

I. ĐỐI  TƯỢNG  VÀ   PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Kỹ thuật mổ

Thì mổ bụng: mổ bụng đường giữa trên rốn, thăm khám các tạng trong ổ bụng, bóc tách và mở rộng lỗ cơ hoành, bóc thực quản lên cao từ 10 – 12cm để đánh giá khả năng cắt u, phẫu tích giải phóng dạ  dày và tá  tràng, giữ lại 2 cuống mạch nuôi dạ dày là  cuống mạch vị mạc nối phải và môn vị, mở môn vị ngoài niêm mạc, mở thông hỗng tràng để nuôi ăn sau mổ.

Thì ngực: bệnh nhân nằm nghiêng trái 900, mở ngực phải sau bên, liên sườn 5, cắt quai tĩnh mạch đơn, phẫu tích thực quản ngực và vét hạch trung thất, cắt thực quản trên u ít nhất là 6 cm. Kéo dạ dày lên ngực phải và làm miệng nối thực quản – dạ dày ở đỉnh ngực bằng máy khâu nối (CDH hoăc EEA số  25 hoặc  28 tùy theo kích thước của thực quản), cắt bỏ phình vị lớn và tạo ống dạ dày bằng 1 máy khâu thẳng TA 90, đặt dẫn lưu ngực qua liên sườn 7 cạnh miệng nối thực quản.

Sau mổ, bệnh nhân được hô hấp hỗ trợ, ống nội khí quản được rút khi bệnh nhân thở lại tốt, thường từ 12 – 24 giờ sau mổ. Nuôi ăn qua ống mở thông hỗng tràng sau mổ 24 giờ. Ống thông dạ dày được rút khi bệnh  nhân có  trung tiện và  không  có  dấu hiệu ứ trệ ở dạ dày. Chụp kiểm tra miệng nối được thực hiện vào ngày thứ 7 sau mổ bằng Telebrix. Sau khi khẳng định miệng nối đã liền tốt thì rút ống dẫn lưu ngực và cho ăn qua miệng.

2. Số liệu

Từ thàng 1/1994 đến thàng 7/2004, 90 bệnh nhân UTTQ 2/3 dưới được phẫu thuật theo kỹ thuật của Lewis tại khoa phẫu thuật tiêu hóa Bệnh viện Việt Đức, gồm:

Giới: 86 Nam (95,6%) và 4 Nữ (4,4%).

Tuổi: tuoi  trung bình là 52,3 ± 9,2 ( 34 ÷75 tuổi).

Vị trí u: 61 khối u 1/3 giữa chiếm 67,8% và 29 khối u 1/3 dưới chiếm 32,2%.

Giải phẫu bệnh vi thể: 67 ung thư biểu mô vẩy (74,5%), 21 ung thư biểu mô tuyến (23,3%) và 2 ung thư cơ trơn (2,2%).

Giai đoạn bệnh:  Giai đoạn I có 2 trường hợp (2,2%), giai đoạn  IIa có  23 trường  hợp (25,6%), giai đoạn IIb có 10 trường hợp (11,1%), giai đoạn III có 42 trường hợp (46,7%), giai đoạn IV có 13 trường hợp (14,4%,

Tính chất triệt căn của phẫu thuật: 65 phẫu thuật  cắt triệt căn  (72,2%) và  25 lần phẫu thuật không triệt căn do u xâm lấn rộng hoặc không lấy được hết hạch (27,8%).

3. Xử lý số liệu

Thời gian sống sau mổ của bệnh nhân được tính theo phương pháp Kaplan – Meier. So sánh thời gian sống sau mổ giữa các nhóm bằng test log – rank, sự khác biệt về thời gian sống sau mổ giữa các nhóm có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.

Mục tiêu: Kỹ thuật và và đánh giá kết quả của phẫu thuật trong điều trị ung thư thực quản 2/3 dưới. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 90 bệnh nhân ung thư thực quản 2/3 dưới được mổ theo kỹ thuật Lewis, gồm 86 Nam và 4 nữ. Tuổi trung bình là 52,3 ± 9,2 (34 ÷ 75). Về giai đoạn bệnh, giai đoạn I là 2.2%, giai đoạn IIa là 25,6%, giai đoạn IIb là 11,1%, giai đoạn III là 46,7% và giai đoạn IV là 14,4%. Kết quả: Tỷ lệ tử vong là 5,6%. Các biến chứng gồm có 1 tổn thương phế quản trái (1,1%), 4 rò miệng nối (4,4%), 19 biến chứng hô hấp (21,1%), 2 chảy máu sau mổ (2,2%), 2 tràn dưỡng chấp lồng ngực (2,2%), 8 hẹp miệng nối (9,4%). Thời gian sống trung bình sau mổ là 23,8 tháng ± 2,8. Tỷ lệ sống 5 năm sau mổ là 12%. Kết luận: Việc thay đổi kỹ thuật Lewis kinh điển có ưu điểm là đánh giá được khả năng cắt các khối u 2/3 dưới của thực quản. Phẫu thuật có tỷ lệ tử vong và biến chứng thấp nên được lựa chọn để điều trị ung thư thực quản 2/3 dưới.
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment