Phẫu thuật nội soi cắt u tuyến thượng thận trong điều trị U Tế bào ưa CROM thượng thận
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và kết quả phẫu thuật nội soi (PTNS) cắt tuyến thượng thận(TTT) trong điều trị u tế bào ưa crom thượng thận cho 186 bệnh nhân (BN), tuổi trung bình của BN38,6 ± 14,7 (từ 17 – 75 tuổi). Kích thước khối u trung bình 45,46 ± 24,32 mm (từ 10 – 108 mm). Thờigian mổ trung bình 92,5 ± 52,3 phút (từ 40 – 240 phút). Thời gian nằm viện trung bình 5,2 ± 1,6 ngày.
Kết quả cho thấy: phẫu thuật cắt bỏ u tế bào ưa crom qua nội soi là phương pháp an toàn và hiệu quả giống như các PTNS khác. Cần điều trị tích cực huyết động trước, trong và sau mổ, đặc biệt kiểm soát tĩnhmạchthượng thận chính sớm trong mổ với sựphốihợpchặtchẽcủagây mê hồi sức.
Tuyến thượng thận là tuyến nôi tiết, nằm sâu sau phúc mạc, có vai trò quan trọng đối với hoạt đông sống của cơ thể. Hormon của TTT tham gia nhiều vào quá trình chuyển hoá phức tạp, đặc biệt catecholamin của tuỷ thượng thận có tác dụng điều hoà huyết áp đông mạch. Hướng điều trị tốt nhất với u tế bào ưa crom là phẫu thuật cắt bỏ u.
Trước những năm 1950, tỷ lệ tử vong trong và sau mổ u TTT từ 20 – 50% [8] do không kiểm soát được tình trạng huyết động trước mổ, đặc biệt trong mổ, đã tác đông vào khối u, kích thích làm tăng nồng độ catecholamin trong máu. Phẫu thuật cắt bỏ u gắn liền với việc điều trị chung gồm điều trị nôi khoa trước, trong và sau mổ. Chuẩn bị trước mổ, điều trị tạm thời tác dụng làm co mạch giúp giảm thể tích tuần hoàn của catecholamin. Trong quá trình gây mê, hồi sức cần theo dõi sát huyết đông, điều chỉnh rối loạn tăng huyết áp, rối loạn nhịp tim khi thăm dò, phẫu tích u, hoặc trụy tim mạch, tụt huyết áp sau khi cắt bỏ u. Ngày nay, điều trị khỏi và triệt để u tế bào ưa crom bằng phẫu thuật cắt bỏ toàn bô u và tuyến với tỷ lệ khỏi 90% [7]. Tuy nhiên, do vị trí và chức năng sinh lý phức tạp, phẫu thuật mở kinh điển vẫn còn là môt thách thức: đường tiếp cận u TTT khó, rối loạn huyết đông cao trong mổ, hậu phẫu phức tạp, thời gian nằm viện dài (12 – 16 ngày), nhất là tỷ lệ tử vong rất cao (10 – 20%) nên phẫu thuật mở cắt u TTT vẫn là môt phẫu thuật nặng nề. Năm 1992, Gagner [5] thực hiện thành công ca phẫu thuật cắt bỏ u TTT qua nôi soi đầu tiên, đã khắc phục được những vấn đề khó khăn của mổ mở, từ đó mở ra trang mới trong lịch sử điều trị ngoại khoa u TTT. Với nhiều năm kinh nghiệm trong phẫu thuật cắt u TTT, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm chỉ ra những mặt ưu, nhược điểm của PTNS cắt u TTT trong điều trị u tế bào ưa crom tại Bệnh viện Việt Đức.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất