PHẪU THUẬT NỘI SOI SAU PHÚC MẠC CẮT THẬN ĐỂ GHÉP TẠI BVCR: PHƯƠNG PHÁP GIẢN ĐƠN VÀ AN TOÀN
PHẪU THUẬT NỘI SOI SAU PHÚC MẠC CẮT THẬN ĐỂ GHÉP TẠI BVCR: PHƯƠNG PHÁP GIẢN ĐƠN VÀ AN TOÀN
Trần Ngọc Sinh, Chu Văn Nhuận, Dương Quang Vũ, Thái Minh Sâm, Châu Quý Thuận, Dư Thị Ngọc Thu, Hoàng Khắc Chuẩn, Trần Trọng Trí, Nguyễn Thị Thái Hà
TÓM TẮT :
Tổng quan: Cắt thận nội soi để ghép khác với cắt bỏ thận do bệnh lý. Cắt thận nội soi (LAPN) để ghép trên người cho sống được phát triển trong gần 2 thập niên qua, và đã nhanh chóng khẳng định ưu thế của nó so với mổ mở. Phẫu thuật vì ít gây biến chứng, hồi phục nhanh sau mổ; cũng nhờ vậy số người cho thận tăng lên. Các trường hợp cắt thận để ghép qua nội soi ở Châu Âu và Bắc Mỹ đa số qua ngả bụng và thường có sự hỗ trợ của bàn tay vào trong bụng. Từ khi Gaur DD (Mumbay, Ấn Độ) đưa kỹ thuật nội soi sau phúc mạc để mổ (23), kỹ thuật nội soi sau phúc mạc cắt thận nội soi dể ghép (RLAPN) được nhiều tác giả Châu Á báo cáo. Ở Việt Nam, kỹ thuật này chưa thông dụng, bệnh viện Chợ Rẫy tiếp thu kỹ thuật LAPN năm 2004 bởi các dồng nghiệp từ Pháp, RLAPN được mổ lần đầu năm 6/2004.
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu mô tả cắt ngang. Người được chọn mổ cho thận là những người có liên hệ gia đình của người nhận hoặc chứng minh được động cơ cho là nhân đạo, không phải buôn bán thận. Tiêu chuẩn y học phải phù hợp với tiêu chuẩn cho-nhận thận của Bộ Y tế quy định (thông qua Hội Đồng Ghép thận bệnh viện Chợ Rẫy). Thời gian thực hiện từ tháng 28/6/2004 đến 20/1/2010. Tiêu chuẩn chọn bên để lấy thận là: 2 thận bình thường, bên thận được chọn là thận bình thường nhưng có chức năng (qua dộ thanh thải đồng vị phóng xạ hai thận) bằng hoặc kém hơn chút ít so với thận để lại cho người cho; thận hiến là thận “có vấn đề” hơn (thí dụ : sỏi nhỏ, nang…) so với thận để lại. Dùng kỹ thuật RPLDN với 3 trocar, lấy thận trực tiếp qua chỗ mở thành hông lưng giữa 2 chân trocar (cách 8cm). Thận được lấy bảo đảm thời gian thiếu máu nóng cho phép, rửa và bảo quan thận bằng dung dịch Euro-Collins lạnh 4 độ C. Sau đó cho vào túi vô trùng bảo quản ở 4 độ C chờ ghép.
Kết quả: Có 78 trường hợp (TH) được RPLDN. Gồm 37/78TH (47,44%) nam và 41/78TH (52,56%) nữ. Tuổi trung bình 42,96±8,8 tuổi, lớn nhất là 63 tuổi; trẻ nhất là 26 tuổi. BMI trung bình = 22,56±3,1, gầy nhất là BMI=17; béo mập nhất là BMI=35. Thời gian thiếu máu nóng trung bình là 4 phút 59 giây ± 2phút 53. Máu mất không đáng kể, không TH nào phải truyền máu, không trường hợp nào phải chuyển mổ mở. Biến chứng: 0 TH chảy máu, 0 TH biến chứng tiêu hóa, 01TH chậm chức năng thận 14 ngày, phải chạy thận nhân tạo sau ghép. Thời gian nằm viện trung bình là 5,45±1,02 ngày. Chức năng thận còn lại tốt trước và sau mổ của người cho: Creatinin-huyết thanh trung bình sau mổ là 1,18±0,21mg% . Chức năng thận ghép hoạt động tốt sau ghép, Creatinin-huyết thanh trung bình của người nhận thận là 1,22±0,13mg%,. Thời gian nằm viện trung bình là 5,45±1,02 ngày.
Kết luận: Qua 78 TH dùng RLAPN tại bệnh viện Chợ Rẫy khả thi với ê kíp Việt Nam, Kỹ thuật đơn giản hơn nội soi cắt thận để ghép, và an toàn trong điều kiện hiện nay ở nước ta. Kỹ thuật có thể áp dụng cho tất cả các trường hợp, không kể bên phải hay bên trái, không kể có bất thường về số lượng và vị trí bất thường mạch máu hay không. Giá thành cuộc mổ ngang với một trường hợp cắt bỏ thận thông thường, không cần các dụng cụ đặc biệt như vợt lấy thận, “Lapdisk”, kỹ thuật “hand assissted”… Ngoài ra RPLDN có vẻ ít xâm hại hơn cho bệnh nhân vì không xuyên qua ổ bụng, dù kỹ thuật có khó hơn đối với phẫu thuật viên, nhưng chức năng thận vẫn tốt qua kiểm tra sau ghép trên người nhận.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất