Phẫu thuật thu gọn vú phì đại
Các yếu tố chủng tộc, hormone, hay các khối u lành tính của vú là nguyên nhân chính gây biến dạng về mặt hình thái cũng như thể tích vú. Thể tích vú trên 350ml được coi là bắt đầu có tình trạng phì đại, đặc biệt vú phì đại khổng lồ khi thể tích đạt tới 1500 – 2000ml mỗi bên vú và là nguyên nhân mộtloạt những bệnh lý ngoài vú. Phẫu thuật thu gọn vú (Reduction mammoplasty) là phương pháp duy nhất có thể giải quyết triệt để các biểu hiện bênh lý do vú quá khổ gây ra, bên cạnh việc giảm thể tích của vú, các yêu cầu khác như Bộ môn Phẫu thuật Tạo hình, Trường Đại học Y Hà Nội
Để thự c thi đượ c mụ c tiê u về phá t triể n dâ n số , nhà nướ c cầ n có biệ n phá p giá o dục
sứ c khoẻ để cả i thiệ n ý thứ c củ a ngườ i dân tạ i cá c vù ng nô ng thô n về kế hoạ ch hoá giađình cầ n phả i đượ c đẩ y mạ nh. Đồ ng thờ i cầ n ban hà nh chính sá ch phù hợ p để giả m mứ c sinh tổ ng thể .
I. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHẪU THUẬT THU GỌN VÚ
Mặc dù Paulus Aegina (635 – 90) được coi là người thực hiện sớm nhất phẫu thuật cắt bỏvú ở
nam giới, nhưng phẫu thuật thu gọn vú ở nữ chỉ được công nhận vào những năm đầu thế kỷ IX. Trong giai đoạn này, phẫu thuật chỉ đơn giản là cắt bỏ một phần vú và ít chú ý đến việc tái tạo lại hình dáng tự nhiên của bầu vú. Đến cuối thế kỹ này, Galliard –Thomas đề xuất đường rạch da nằm ở nếp lằn vú để loại bỏ một một phầnda và tuyến vú. Czerny sau đó đã biết cách chuyển quầng núm vú đến vị trí mới của bầu vú sau khi cắt bỏ một phần bầu vú. Đây là một bước quan trọng trong quá trình hình thành kỹ thuật thu gọn vú về sau này. Những năm đầu thế kỷ 20, Morestin và Hollander tiến hành thu gọn vú với đường rạch da và đường đóng da hình chữ L. Năm 1921 Lexer kết hợp việc chuyển núm vú và cắt bỏ tuyến ở cực dưới bầu vú và Kraske đã hoàn thiện kỹ thuật này. Axhausen tiến thêm một bước dài trong hoàn thiện kỹ thuật thu gọn vú bằng cách bóc tách dưới da rộng ở vú nhằm cắt bỏ một phần tuyến vú, sau đó chuyển núm vú sang vị trí mới và tạo dáng cho bầu vú. Năm 1922, Thoreklần đầu tiên thực hiện ghép lại quầng núm vú sau khi cắt bỏ bán phần tuyến vú trên những người có tình trạng vú phì đại khổng lồ. Biesenberger chủ trương bảo tồn quầng núm vú dựa trên khả năng cấp máu cho quầng núm vú từ trung tâm vú và cơ ngực lớn. Schwarzmann lần đầu tiên áp dụng kỹ thuật bảo tồn quầng núm vú với vạt có cuống nuôi trong. Gillies and McIndoe cũng như Aufricht cải tiến kỹ thuật bằng cách cắt bỏ tuyến ở cực trên,
dưới hay ngoài tuyến vú nhằm tạo bầu vú tựnhiên hơn. Năm 1956, Wise sử dụng khuôn sắt hình lỗkhoá trong việc thiết kế đường rạch da trướcphẫu thuật. Năm 1960, Strombeck đề xuất kỹ thuật bảo tồn quầng núm vú bằng vạt hai cuống ngang. Năm 1967, Pitanguy mô tả cuống trung bì trên đủ để mang quầng núm vú. Dufourmental thay đổi vịtrí cắt tuyến vú ở bên ngoài để giảm sẹo phía trong vú. Skoog mô tả cuống trung bì ngoài với đóng góp chuyển núm vú theo kinh tuyến vú. McKissock sử dụng vạt cuống kép dọc trung bì
mang quầng núm vú. Robbins, Courtiss và Goldwyn, cùng đưa ra kỹ thuật tạo vạt trung bì cuống nuôi dưới. Courtiss sau đó đề xuất hút mỡ là phương pháp độc lập để giảm thể tích vú mà không cần phẫu thuật. Một loạt đường rạch da mới được áp dụng nhằm giảm đến mức tối đa sẹo cuối cùng. Kỹ thuật B của Regnault đề xuất trong đó sẹo thu được sau phẫu thuật có hình chữ Lhay J, đây cũng là cách loại bỏ phần sẹo phí trong bầu vú. Kỹ thuật tạođường sẹo thẳng, loại bỏ đường sẹo ngang thực sự được đóng góp công sức của Arie, Lassus, đặc biệt là Lejour.
II. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA PHẪU
THUẬT THU GỌN VÚ Trong phẫu thuật thu gọn vú, điểm quan trọng
của bất cứ kỹ thuật nào cũng phải bảo tồnđược phức hợp quầng núm vú cả về mặt chức năng(cảm giác và khả năng tiết sữa) và tạo được hình
thái bình thường của bầu vú (độ nhô của bầu vú, cải thiện hình dạng của vú và chuyển vị trí của phức hợp quầng núm vú đến vị trí mới của bầu vú là mục tiêu cuối của tất cả các kỹ thuật thugọn vú. Phẫu thuật thu gọn vú đã trải qua một thời gian dài, những nghiên cứu về giải phẫu vú đã hoàn thiện dần kỹ thuật thu gọn vú với kết quả hoàn hảo nhưng ít biến chứng hơn. Cho đến nay người ta tổng kết rằng có gần hai trăm kỹ thuật thu gọn vú với hai xu hư ớng chính: thu gọn vú có bảo tồn quầng núm vú, thu gọn vú không bảo tồn quầng núm vú có ghép tự do quầngnúm vú. Nói chung cuộc cách mạng trong phẫu thuật thu gọnvú luôn tập trung ở xu hướng thứ nhất trongđóhai điểm về mặt kỹ thuật, đường rạch da và cách tạo vạt mang quầng núm vú, luôn được nghiên cứu và hoàn thiện không ngừng.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích