Phẫu thuật u vùng tuyến tùng
U vùng tuyến tùng bao gồm nhiều loại u nhưng có khoảng 30 – 50% là khối lành tính. U chiếm khoảng 1 – 5% tổng số u trong sọ và trên 10% u trong sọ ở trẻ em. Những nghiên cứu ở Châu Á cho thấy tỷ lệ khối u vùng này gặp nhiều hơn ở Châu Âu và Châu Mỹ. Trước đây, hầu hết khối u vùng này được coi là “không thể mổ” vì vị trí khối u rất nguy hiểm. Tỷ lệ biến chứng và di chứng cao, tử vong khoảng 30 – 70% sau khi mổ. Với sự phát triển về chẩn đoán hình ảnh, kính vi phẫu thuật, định vị và trình độ gây mê hồi sức, ngày nay đã có nhiều trung tâm trên thế giới phẫu thuật loại u này. Nhưng ở Việt Nam, số lượng bệnh nhân u vùng tuyến tùng được phẫu thuật còn rất ít. Chúng tôi đã áp dụng thành công phương pháp vi phẫu thuật u vùng tuyến tùng từ 5 năm trở lại đây. Đó là phẫu thuật u vùng tuyến tùng bằng đường mổ trên lều tiểu não. Chính vì vậy, chúng tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu:
Đánh giá kết quả phẫu thuật u vùng tuyến tùng bằng đường mổ trên lều tiểu não tại Bệnh viện Việt Đức.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: 129 bệnh nhân u vùng tuyến tùng được phẫu thuật tại Bệnh viện Việt Đức từ 1/2002 tới 12/2009. Trong số đó có 4 bệnh nhân được mổ bằng đường mổ dưới lều tiểu não và 125 bệnh nhân được mổ bằng đường mổ trên lều tiểu não. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ nghiên cứu 125 bệnh nhân mổ bằng đường mổ trên lều.
2. Phương pháp nghiên cứu
Tất cả 125 bệnh nhân được mổ bởi một phẫu thuật viên duy nhất với đường mổ trên lều, có cắt lều hoặc không tùy từng vị trí khối u.
Nghiên cứu viên là người trực tiếp khám bệnh nhân, lên kế hoạch mổ, chọn đường mổ và tiến hành phẫu thuật. Một số trường hợp nặng đòi hỏi phải dẫn lưu não thất ra ngoài ngay trong mổ, hoặc mở thông nội soi não thất III – bể đáy hoặc dẫn lưu não thất ổ bụng trước khi mổ. Kỹ thuật mổ: bệnh nhân được nằm sấp, đầu cố định trên khung Mayfield. Rạch da vòng cung hoặc đường thẳng. Mở nắp sọ rộng 3 – 5 cm lệch sang bên phải, bên trái, hoặc sang cả hai bên tùy vị trí khối u. Mở màng não hình chữ T, vén thùy chẩm, đặt kính vi phẫu, hút nước não tủy. Cắt lều tiểu não hoặc không. Tiếp cận khối u và lấy u. Điều trị sau mổ bằng xạ trị, hoặc hóa chất.
Đánh giá sự thành công của kỹ thuật: tiếp cận được khối u hay không, lấy được u hay không, khó lấy u hay dễ lấy.
Đánh giá sự thành công của phương pháp: lấy hết u (không còn khối u trên phim chụp kiểm tra), lấy gần hết u (phần khối u còn lại
< 1cm), lấy một phần u (phần u còn lại chiếm
½ khối u), sinh thiết (lấy 1 mảnh nhỏ, không giải phóng chèn ép) hay không thể lấy được khối u.
Biến chứng trong và sau mổ: chảy máu, nhiễm trùng, rò nước não tủy, phù não, mổ lại.
Kết quả sớm được đánh giá khi ra viện: sống, chết, biến chứng; tình trạng khi ra viện: tỉnh, lơ mơ, liệt, cần trợ giúp hô hấp, tuần hoàn. Kết quả xa được đánh giá sau mổ > 3 tháng theo bảng Glasgow Outcome Scale: sống, chết, sống thực vật, di chứng nặng và di chứng nhẹ, hồi phục hoàn toàn.
Mục tiêu: đánh giá kết quả phẫu thuật u vùng tuyến tùng bằng đường mổ trên lều – cắt lều tiểu não.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả tiến cứu dựa trên 125 bệnh nhân u vùng tuyến tùng được phẫu thuật bởi chính tác giả. Đánh giá sự thành công của kỹ thuật: lấy hết u, lấy gần hết u, lấy một phần u, sinh thiết và không lấy được u. Đánh giá sự thành công của phương pháp dựa vào tỷ lệ sống, chết, biến chứng. Đánh giá ưu nhược điểm của đường mổ trên lều – cắt lều tiểu não. Kết quả: cả 125 bệnh nhân đều tiếp cận, bộc lộ và lấy được khối u. Lấy hết u ở 79/125 bệnh nhân (63,2%), lấy gần hết u 45/125 (36%) và lấy một phần khối u 1/125 (0,8%). Chết 1/125 bệnh nhân (0,8%), biến chứng 7/125 (5,6%) bao gồm liệt nửa người, nhiễm trùng và chảy máu. U ác tính 76 (60,8%) và u lành 49 (39,2%). Điều trị tia xạ 65/76 bệnh nhân (85,5%). Kiểm tra sau mổ 6 tháng 50 bệnh nhân và 50 (100% với Karnofsky > 70). Đường mổ trên lều – cắt lều tiểu não áp dụng được cho mọi loại khối u vì thăm dò rộng rãi, kiểm soát được cấu trúc giải phẫu xung quanh. Kết luận: đường mổ trên lều – cắt lều tiểu não là đường mổ an toàn, hiệu quả và có thể áp dụng với nhiều loại u vùng tuyến tùng.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích