PHỐI HỢP ERYTHROMYCINE- TACROLIMUS TRONG GHÉP THẬN TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
Sự ra đời của nhóm thuốc ức chế’ calcineurine: dclosporine và sau đó là tacrolimus đã thật sự cải thiện tiên lượng sống của những bệnh nhân được ghép tạng. CNI là thuốc chủ lực trong phòng ngừa thải ghép ở giai đoạn sớm và muộn sau ghép. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển, giá thành của CNI vẫn còn là một gánh nặng.
CNI được chuyển hóa thông qua cytochrome P450 ở gan. Các thuốc có tác dụng ức chế’ hệ thống men này do đó có tác dụng làm giảm chuyển hóa CNI, nhờ vậy, làm tăng nồng độ thuốc trong máu. Các thuốc này bao gồm: diltiazem, ketoconazole, kháng sinh nhóm macrolides….
Có vài công trình nghiên cứu ở Hy lạp(1) và Canada(4) cho thấy lợi ích của việc kết hợp CNI và ketoconazole trong việc giảm liều CNI sau ghép thận ở trẻ em. Tương tự, Huseini(23) cũng cho thấy lợi ích của việc kết hợp này trong việc giảm liều CNI ở những trẻ bị hội chứng thận hư kháng corticoids. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào chia sẽ việc kết hợp CNI với erythromycine. So với ketoconazole, erythomycine dễ sử dụng hơn cho trẻ em và có ít tác dụng phụ hơn, các dạng đóng gói và đóng viên ở liều phù hợp với trẻ em không phải chia nhỏ ra. Dựa trên cơ sở này, chúng tôi ứng dụng phối hợp erythromycine với tacrolimus (Prograf) trên các trẻ được ghép thận tại bệnh viện Nhi đồng 2 thành phố’ Hồ Chí Minh nhằm khảo sát hiệu quả, lợi ích và tác dụng phụ trong quá trình điều trị.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất