PHÒNG NGỪA TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO – ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2
PHÒNG NGỪA TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO – ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2
Hoàng Khánh*, Nguyễn Đức Hoàng**, Lê Thanh Hải**,
* Trường Đại Học Y Dược, Huế;
**Bệnh Viện Đa Khoa Tỉnh TT Huế
TÓM TẮT
Tai biến mạch máu não (TBMMN) và đái tháo đường (ĐTĐ) là hai bệnh lý khác nhau nhưng liên quan nhiều vấn đề chung. Cả hai bệnh lý này ngày mỗi gia tăng nhanh, đều là bệnh có ảnh hưởng đến các mạch máu, và cả hai đều liên quan đến các yếu tố nguy cơ tim mạch khác, chẳng hạn như tăng huyết áp và rối loạn lipid máu. Việc điều hòa đường máu bất thường, trong đó bệnh ĐTĐ là một trong những biểu hiện, chiếm 2/3 ở bệnh nhân TBMMN cấp. Đáng ngạc nhiên, nếu điều trị tích cực đường máu sau một TBMMN cấp đã không được chứng minh cải thiện kết quả hoặc giảm tỷ lệ TBMMN. Tuy nhiên, nếu khống chế, điều trị, quản lý các yếu tố nguy cơ tim mạch khác thì đã được chứng minh ngăn ngừa TBMMN và cải thiện hiệu quả sau một TBMMN do ĐTĐ. Tăng huyết áp (THA) cần được điều trị với mục tiêu là 140/80 mmHg. Thuốc được lựa chọn điều trị THA ở bệnh nhân ĐTĐ là thuốc ức chế men chuyển, mặc dù ưu tiên là giảm huyết áp không phụ thuộc vào loại thuốc được lựa chọn. Rối loạn lipid máu nên được điều trị, đặc biệt tăng cholesterol bằng nhóm thuốc hạ cholesterol là statin. Điều trị thuốc chống ngưng tập tiểu cầu cũng cần thiết nhưng không có đề xuất cụ thể cho mỗi bệnh nhân ĐTĐ. Tuy nhiên, trong dự phòng cả tiên phát và thứ phát ở bệnh nhân ĐTĐ cần được bắt buộc, để ngăn ngừa bệnh và giảm thiểu các tai biến khác.
1. Tổng quan
ĐTĐ là một bệnh lý thường gặp có tỷ lệ ngày càng tăng do tuổi thọ ngày càng cao và bệnh béo phì ngày càng nhiều. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ cho mọi lứa tuổi trên toàn thế giới được ước tính là khoảng 2,8%, và tổng số người bị ĐTĐ được dự kiến sẽ tăng từ 171 triệu người trong năm 2000 tăng lên 366 triệu người vào năm 2030 [1]. Tại Hoa Kỳ, có hơn 23 triệu người mắc bệnh ĐTĐ năm 2000, và số lượng người bị bệnh ĐTĐ ước tính sẽ tăng lên 165% đến năm 2050 [2].
Việc điều hòa đường máu bất thường có thể xảy ra trong một số tình huống lâm sàng khác nhau như: bệnh ĐTĐ, rối loạn dung nạp đường máu, hoặc trong thời gian mắc bệnh cấp tính. Bệnh ĐTĐ được chẩn đoán khi tăng đường máu mãn tính. ĐTĐ có thể chưa được chẩn đoán ở những người không có triệu chứng nhưng nó là một yếu tố nguy cơ của TBMMN. Rối loạn dung nạp đường máu ít được phát hiện nhưng nó là yếu tố nguy cơ (YTNC) của TBMMN. Rối loạn dung nạp đường máu tuy không có triệu chứng nhưng nó vẫn có nguy cơ biến chứng như ĐTĐ và tình trạng này thường phát triển thành bệnh ĐTĐ. Trong lúc bị Stress cũng là yếu tố tăng đường máu nhưng thật sự bệnh nhân không bị ĐTĐ hoặc rối loạn dung nạp đường.
Đái tháo đường là một yếu tố nguy cơ độc lập bệnh TBMMN [3]. So với người không bị ĐTĐ, bệnh nhân ĐTĐ là YTNC bị TBMMN tăng hơn gấp 2 lần so với người không bị ĐTĐ, và khoảng 20% bệnh nhân ĐTĐ tử vong do TBMMN, nó là những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu. Thời gian mắc bệnh ĐTĐ cũng đã được chứng minh là làm tăng nguy cơ nhồi máu não, với mỗi năm của thời gian bệnh ĐTĐ làm tăng nguy cơ là 3% [3]. Tăng đường máu đã được chứng minh làm tăng kích thước nhồi máu não và làm trầm trọng thêm các kết quả lâm sàng sau một cơn TBMMN cấp [4].
Việc quản lý bệnh ĐTĐ và TBMMN liên quan nhiều yếu tố, nguyên nhân chủ yếu là do bệnh ĐTĐ ảnh hưởng đến các mạch máu (ngoài hệ thống cơ quan khác) và TBMMN là một bệnh của mạch máu. Hơn nữa, bệnh ĐTĐ thường được kết hợp với các yếu tố nguy cơ tim mạch khác như tăng huyết áp và rối loạn lipid máu.
Do đó, việc quản lý tích cực và tối ưu hóa các yếu tố nguy cơ tim mạch là tối quan trọng. Theo nghiên cứu dọc của các nhà khoa học ở Anh về bệnh ĐTĐ cho thấy tuổi càng tăng, hút thuốc lá, THA tâm thu, và sự hiện diện của rung nhĩ dự đoán nguy cơ TBMMN đứng hàng đầu. Ngoại trừ tuổi, tất cả những yếu tố nguy cơ thay đổi được cần phải loại bỏ để dự phòng TBMMN ở bệnh nhân không bị bệnh ĐTĐ.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất