Quan niệm về chất lượng cuộc sống của người cao tuổi ở Việt Nam

Quan niệm về chất lượng cuộc sống của người cao tuổi ở Việt Nam

Việt Nam đang chuẩn bị bước vào giai đoạn già hóa dân số. Chất lượng cuộc sống (CLCS) được xem là một chỉ số sức khỏe quan trọng của người cao tuổi (NCT). CLCS là một khái niệm đa chiều cạnh, mang tính chủ quan cao và gắn với bối cảnh văn hoá, xã hội cụ thể. Nghiên cứu CLCS của NCT có ý nghĩa cho việc xây dựng, triển khai và đánh giá các chương trình can thiệp tổng thể đối với NCT. Nghiên cứu định tính này được thực hiện nhằm tìm hiểu quan niệm về CLCS của NCT ở Việt Nam thông qua 5 cuộc phỏng vấn sâu (PVS) chuyên gia, 6 cuộc PVS và 9 cuộc thảo luận nhóm với NCT ở 3 xã/phường mang đặc trưng của khu vực nông thôn, đô thị và miền núi của tỉnh Hải Dương. Phần mềm NVivo được sử dụng để quản lý và phân tích dữ liệu. Kết quả cho thấy, quan niệm về CLCS của NCT bao gồm 6 khía cạnh quan trọng: Sức khỏe thể chất, Tâm lý, Quan hệ xã hội, Môi trường, Kinh tế, và Niềm tin. Bên cạnh những điểm tương đồng với các khía cạnh về CLCS của một số nghiên cứu trên thế giới, nghiên cứu này cũng chỉ ra những điểm khác biệt về giá trị văn hoá – xã hội của CLCS của NCT. Kết quả nghiên cứu định tính đã được sử dụng để xây dựng bộ công cụ đo lường CLCS NCT ở Việt Nam.

Theo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, Việt Nam là nước có cơ cấu dân số vàng nhưng chỉ số già hóa đã tăng từ 24,5% năm 1999 lên 35,9% năm 2009, tỉ lệ NCT từ 60 tuổi trở lên chiếm 9% [1]. Quá trình già hóa dân số đã được phản ánh qua tỉ lệ người cao tuổi (NCT) tăng dần qua các năm [2]. Việc tìm hiểu và đo lường chất lượng cuộc sống (CLCS) của NCT trong bối cảnh hiện nay là một việc làm có ý nghĩa nhằm đánh giá sự thay đổi về CLCS của NCT theo thời gian (áp dụng cho những nghiên cứu dọc), đánh giá sự khác nhau về CLCS của NCT ở các địa bàn nghiên cứu khác nhau tại một thời điểm hoặc đánh giá tác động trước sau của các chương trình can thiệp mang tính tổng thể cũng như những chương trình can thiệp nâng cao sức khoẻ đối với NCT tại cộng đồng.
Khái niệm CLCS được sử dụng rộng rãi trong khoa học xã hội liên quan đến các khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội. Các khía cạnh của CLCS được nhiều ngành, nhiều lĩnh vực phân tích với những tiêu chí khác nhau. Trong nghiên cứu thuộc lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, khái niệm sức khỏe nói chung (bao gồm cả sự khỏe mạnh về thể chất, tâm lý và xã hội) được xem là những khía cạnh quan trọng nhất của CLCS. Tuy nhiên, các nghiên cứu về CLCS cũng cho thấy sức khỏe không phải là khía cạnh duy nhất của CLCS [3]. Tổng quan tài liệu trên thế giới cho thấy, CLCS là một khái niệm đa chiều cạnh, mang tính chủ quan cao và có những đặc trưng riêng biệt trong mỗi bối cảnh kinh tế, văn hoá, xã hội khác nhau [3,4].
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về NCT ở Việt Nam trong đó ít nhiều cũng đã đề cập đến các khía cạnh của CLCS NCT nhưng cho đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu toàn diện về CLCS của NCT. Nghiên cứu định tính này được thực hiện nhằm tìm hiểu quan niệm về CLCS của NCT làm cơ sở cho việc xây dựng bộ công cụ đo lường CLCS của NCT ở Việt Nam.
2.    Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu quan niệm về CLCS của NCT ở Việt Nam.
3.    Phương pháp nghiên cứu
–    Thiết kế nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu hiện tượng học (phenomenology) được áp dụng nhằm tìm hiểu quan niệm về CLCS NCT thông qua mô tả ý nghĩa của những trải nghiệm thực tế của chính bản thân đối tượng nghiên cứu; thông qua đó tìm kiếm, khái quát hóa những tính chất chung của các trải nghiệm. Nghiên cứu sử dụng hai kỹ thuật thu thập thông tin là phỏng vấn sâu (PVS) và thảo luận nhóm (TLN).
–    Đối tượng nghiên cứu: Bao gồm 2 đối tượng: (1) các chuyên gia làm việc/nghiên cứu trong lĩnh vực NCT; (2) NCT từ 60 tuổi trở lên sinh sống tại cộng đồng.
–    Chọn mẫu: Nghiên cứu áp dụng phương pháp chọn mẫu có chủ đích. Các đối tượng NCT được lựa chọn tham gia PVS/TLN dựa trên các tiêu chí đảm bảo cân bằng về giới tính (nam/nữ), độ tuổi (60-70 tuổi/trên 70 tuổi), dân tộc (dân tộc Kinh/dân tộc thiểu số), địa bàn (nông thôn/đô thị/miền núi). Những NCT có sức khỏe quá yếu, không có khả năng giao tiếp không được lựa chọn tham gia vào nghiên cứu này.
–    Cỡ mẫu: 05 PVS chuyên gia; 06 PVS NCT và 09 cuộc TLN với 72 NCT tại cộng đồng.
–    Địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu thực hiện PVS với các chuyên gia tại Hà Nội và PVS/TLN với NCT sinh sống tại 3 xã/phường Đoàn Tùng (Huyện Thanh Miện), Bắc An (Huyện Chí Linh) và Trần Phú (Thành phố Hải Dương) của tỉnh Hải Dương.
–    Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 6/2008-2/2009.
–    Phương pháp phân tích số liệu: quản lý và phân tích bằng phần mềm NVivo. Sơ đồ các chủ đề (nodes tree) được nhóm nghiên cứu có kinh nghiệm trong nghiên cứu định tính phát triển và tổng hợp dựa trên dữ liệu PVS và TLN cũng như kết quả nghiên cứu tổng quan trước đó. Nhằm đảm bảo việc mã hóa các thông tin phỏng vấn được thống nhất, nhóm cán bộ phân tích số liệu định tính đã cùng tiến hành mã hóa dữ liệu 02 trường hợp phỏng vấn, trên cơ sở đó, các nghiên cứu viên trao đổi để có cách hiểu thống nhất trước khi thực hiện

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment